Tuesday, May 22, 2007

BÙI THỊ HIẾU NGỌC 21 TUỔI
TRẠI PHONG VĂN MÔN-THÁI BÌNH
VŨ VĂN - VŨ THƯ - THÁI BÌNH, VIỆT NAM

CHUYỆN CỔ TÍCH VĂN MÔN
-Hiếu Ngọc-


Ngày nảy, ngày nay, khi mà không gian và thời gian có tên có tuổi, có số chữ hẳn hoi thật là hay.
Tại một vương quốc nhỏ có tên là Hải Dương có một hoàng tử tên và Văn Rít, người rất khôi ngô tuấn tú lại rất giàu lòng yêu nước. Chàng đã tham gia vào đội du kích để bảo vệ vương quốc hùng vĩ Việt Nam yêu dấu của mình, chống lại bọn giặc cỏ đang nhăm nhe xâm chiếm vương quốc Việt Nam yêu dấu. Có thể nói chàng là một người rất nghĩa hiệp và rất tốt bụng. Ai ai trong tiểu vương quốc cũng yêu mến chàng và chàng trở nên tâm điểm sự chú ý của các thiếu nữ trong kinh thành Hải Dương.
Vị hoàng tử của chúng ta đã thành hôn với một vị cô nương rất xinh đẹp và sinh ra 2 người con rất đẹp và rất kháu khỉnh. Cuộc sống hạnh phúc những tưởng là được ở lâu cùng chàng Văn Rít nhưng đến một ngày nọ trong thành xuất hiện một mụ phù thủy-mụ ta rất độc ác, gớm ghiếc bởi mụ là kẻ bẩn thỉu, bệnh tật và chuyên mạng đến cho loài người căn bệnh đáng kinh tởm: lở loét, cụt cò và mất cảm giác. Mọi người rất căm ghét mụ và họ gọi mụ là Han Sen.
Mụ Han Sen rất độc ác, mụ đã chọn chàng Rít làm vật thí nghiệm, truyền bệnh của mình. Vậy là mọi thứ với chàng Rít đã trở nên rỗng tuyếch vì không có gia đình, vợ bỏ, con khiếp sợ, hàng xóm xa lánh. Cuộc sống trở nên vô nghĩa “sống không bằng chết”.
Vì bị lở loét, chân tay mất hết cảm giác, bị xa lánh làm cho chàng Rít buồn bã, khóc lóc và lang thang, sống vất vưởng bờ bụi. Vì nguyền ác độc của mụ Han Sen mà một chàng hoàng tử hiền hậu, đáng mến như chàng Rít trở thành một lão “khọm già”, một “con quỷ không nhà”.
Căn bệnh quái dị đó đã làm cho chàng tiều tụy, khô héo. Cuộc sống lang thang, vất vả bị xa lánh của chàng kéo dài vài năm cho đến khi chàng lạc bước tới một vùng “Đất hứa”. Nơi đó chàng được chăm sóc bởi những nàng tiên áo trắng hiền hậu. Và khi đến vùng “Đất hứa” này chàng đã 37 tuổi rồi: Mắt mờ, lở loét, …thật bất hạnh.
Và thời gian lúc đó có tên là 1953-1954.
Cũng cùng cảnh ngộ như thế, tại tiểu vương quốc Nam Định, tại vùng ven Hải Hậu, có nàng Nguyên Mai rất xinh đẹp, đôi mắt nàng tròn, đen và lấp lánh như những vì sao đêm. Tính nết và nụ cười của nàng làm say đắm bao tràng trai. Vì nhà nghèo nên nàng phải lập gia đình sớm năm nàng 17 tuổi-cái tuổi đẹp nhất. Hạnh phúc đã gõ cửa nhà nàng. Sự xung túc và may mắn, hiền dịu của nàng cũng làm cho bao kẻ phải ghen ghét trong đó có mụ Hủi-một mụ đàn bà xấu xa, bẩn thỉu và bị mọi người xa lánh-mụ ghen ghét với sự hạnh phúc của nàng, mụ đã nổi lòng thèm muốn có được sự may mắn đó của nàng nhưng đó chỉ là sự viển vông, vô vị vì mụ chăng bao giờ mụ có được một việc thiện gì hay được mọi người chấp nhân. Nên mụ đã thịnh lộ, chua cay nguyền rủa nàng Mai: “Ta sẽ nguyền rủa cho ngươi sẽ phải chịu cành ngộ như ta, ta sẽ làm cho ngươi bị chồng con ruồng rẫy, làng xóm hắt hủi xa lánh như ta”. Rồi mụ cười khoái trí.
Thật khổ cho nàng Mai tốt bụng, từ khi mụ bị hủi nguyền rủa, nàng lúc gặp phải những bất hạnh trong cuộc sống gia đình. Rồi đôi bàn tay nàng dần dần rụt lại, không cảm giác. Người nàng dần dần đau nhói…Nàng hoảng hốt, xấu hổ, than khóc. Nàng dấu cả chồng con hàng xóm nhưng không thể dấu được lâu. Nàng bị chồng con phát hiện, họ sợ hãi, đuổi nàng ra khỏi nhà mặc cho nàng van nài thảm thiết.
Từ đây, cuộc đời nàng Mai sang một trang mới, từ một cô tấm hiền lành trở nên một cô hồn bơ vơ.
Nàng đi lang thang mặc cho người đời xì xèo, khiếp sợ, chửi bới. Càng ngày bàn tay nàng càng rụt lại không sao ruỗi ra được, chân đau và trở nên cất cần, thật là khổ đau.
Cho đến năm 1955, nàng đã tới được một vùng “Đất mới”, một vùng đất đem lại sự hồi sinh cho cuộc đời nàng.
Các bạn có biết vùng đất mà tôi muốn nói đến là một nơi nào không ạ? Đó chính là vùng đất
Văn Môn thuộc tiểu vương quốc Thái Bình Văn Môn-nơi chứa đựng yêu thương, đồng cảm và là hơi thở mới cho những kiếp người như chàng Rít, nàng Mai.
Tại vùng đất Văn Môn này, chàng Rít, nàng Mai và rất nhiều những người cùng cảnh ngộ được yêu thương, chăm sóc, sẻ chia bởi những bà tiên áo trắng.
Và cũng chính nơi đây, tình yêu giữa chàng Rít và nàng Mai đã đơm hoa kết trái. Nàng Mai quyết định đến với chàng Rít vì tình thương yêu, đồng cảm giữa những người cùng cảnh ngộ. Vậy là hạnh phúc một lần nữa lại gõ cửa nhà họ.
Tình yêu ấy đã làm mọi người xung quanh chàng và nàng thán phục và cũng là tin sét đánh đối với mụ Hủi. Mụ bực tức, sôi sục, điên lên mà gầm thét. Mụ nghiến răng kèn kẹt, mụ tiếp tục nguyền rủa nàng Mai.
“không có kẻ nào có thể thoát khỏi lời nguyền rủa của ta. Nhà ngươi…nhà ngươi…Ta sẽ nguyền cho nhà ngươi sẽ gặp nhiều bất công, đau khổ trong cuộc sống gia đình. Ta sẽ làm cho chồng nhà ngươi bệnh sẽ nặng hơn để tuyệt vọng. Nhưng nhà ngươi cũng có thể vượt được qua lời nguyền của ta trừ phi…”.
Các bạn biết không? ở đời này không có điều gì, hạnh phúc nào là bền vững mãi mãi cả.
Qua mười năm năm chung sống, nàng Mai và chàng Rít giờ đây đã trở thành những bậc trung niên rồi! Và giờ đây cả hai đã nên nên bà hết rồi. Nhưng đó cùng là khoảng thời gian đau đớn khi bà Mai nhân ra bệnh tình của ông Rít càng trở nên trầm trọng: đôi bàn tay ông trở nên lở loé, mất đốt, ngón không ra ngón, tay không ra tay. Lại thêm đôi mắt mờ và đôi chân không cử động được.
Bà đau khổ quá nhưng bà vẫn yêu thương ông, chung tay giúp ông trong sinh hoạt, bà nấu cơm, giặt giũ quần áo, chu toàn chức năng làm vợ của mình.
Cuộc sống và công việc vì thế trôi qua.
Hai mươi năm rồi ba mươi năm trôi qua, ông Rít giờ đây như một khúc gỗ nằm bất động trên giường bệnh, đôi tay ông rụt hẳn ngón, đôi chân ông không còn nữa vì đã bị cắt đi để đảm bảo tính mạng, đôi mắt mở chừng chừng nhưng vô cảm. Ông không còn biết gì nữa. Cả người vợ đã chung sống với ông bao năm ông cũng không biết.
Bà nhìn ông mà lòng đau thắt lại, nước mắt lưng chòng, bà đau khổ tuyệt vọng, đã không ít lần bà muốn bỏ đi, bỏ ông để cho đỡ khổ nhưng bà không thể vì ông ấy là chồng bà, là người đồng cam cộng khổ, chia sẻ cùng bà bao nhiêu năm. Bà lại không đành lòng.
Bà lại tiếp tục phục vụ ông, chăm sóc ông như ngày nào. Mà như bà tâm sự càng ngày bà càng yêu ông hơn. Chính tình yêu đã đem lại cho bà Mai cái nghị lực phi thường ấy. Có những đêm ông bệnh, bà thức cả đêm để chăm ông. Bà lo lắng sợ hãi vì sợ mất ông, bà buồn và bà chỉ biết khóc. Nỗi đau như tăng dần lên theo năm tháng nhưng đồng hành với nó là tình yêu thương, đồng cảm, tình vợ chồng…
Hai ông bà sống với nhau nhưng không có một người con nào nên lúc ôm đau không biết cậy nhờ vào ai. Nhưng do hai ông bà ăn ở nên cũng được sự giúp đỡ của những người phong cùng cảnh ngộ và nhất là sự quan tâm chăm sóc, điều trị của ông vua và các đại thần cùng các nàng tiên áo trắng.
Gánh nặng cũng vơi đi một nửa. Nhưng trong thâm tâm bà Mai vẫn còn nặng trĩu và bà đã may mắn gặp ông bụt- người rất yêu thương loài người và thường xuyên giúp đỡ người hiền lành-ông Bụt đó đã cho bà một điều ước: bà sẽ được sống thật lâu, mạnh khỏe và tràn trề tình yêu với mọi người nhất là nghị lực để vượt qua khó khăn để phục vụ ông đến lúc ông qua đời.
Đó cũng là một món quà quý giá mà bà Mai nhận được từ ông Bụt. Bà rất vui sướng.
Còn nói đến mụ Han Sen và mụ hủi, do bị người đời nguyền rủa và bị những vị thần tốt trong vùng đất Văn Môn cảm hóa nên tốt đẹp.
Giờ đây 2 mụ cũng được các nàng tiên áo trắng chăm sóc, yêu thương nên hai mụ cũng trở thành người tốt bụng. Hai mụ nguyện chung sống với loài người một cách hòa bình, mụ Han Sen nói:
“Tôi biết chúng tôi là những kẻ xấu xa, tàn ác. Xin mọi người hãy tha thứ cho chúng tôi. Chúng tôi làm nhiều điều bất nhân nhưng chúng tôi cũng biết sợ. Chúng tôi sợ sức mạnh tình yêu thương, đồng cảm, chia sẻ bệnh tật, nghèo nàn cho nhau. Chúng tôi bị thu phục bởi sức mạnh của tình yêu và lòng nhân nghĩa”.
Thế đấy các bạn ạ! cổ tích là một truyện hư cấu nhưng lại đem lại cho con người ta niềm tin tưởng vào một tương lai tốt đẹp hơn, hạnh phúc hơn: Hoàng tử sẽ lấy công chúa và họ sẽ sống với nhau hạnh phúc suốt đời, người hiền sẽ gặp lành kẻ ác sẽ bị tiêu diệt.
Chuyện cổ tích Văn Môn mà tôi kể cho các bạn nghe trên đay là một câu truyện hết sức có thật. Và hai nhân vật ông Rít và bà Mai đã bước sang cái tuổi “thât thập cổ lai hy” rồi nhưng tôi vẫn nhận thấy ở những con người làng phong Văn Môn quê tôi niềm tin vào cuộc sống.
“Họ vẫn ngày ngày ăn cơm, đọc báo chia sẻ với nhau những câu chuyện đời thường. Tâm sự với nhau về số phận mình nhưng cũng dành cho nhau nhũng nụ cười thật ấm lòng”.
Xin hãy đến với Văn Môn để nghe tôi kể những câu chuyện cổ tích ngày nay hết sức thật và đầy cảm động về những người bệnh có số phận hẩm hiu, đau đớn nhưng vẫn gồng mình lên hàng ngày để sống và yêu thương
.

CHÀNG HỦI TO

Ngày xửa, ngày xưa, tại kinh đô Thăng Long tráng lệ, có một gia đình phú ông rất hạnh phúc. Phú ông có hai người con trai là Chàng Phùng và Chàng Du. Chàng Du còn nhỉ nên rất nghịch ngợm, chơi bời còn Chàng Phùng lại rất chịu khó rùi mài kinh sử, hiểu biết lẽ đời. Chàng ta rất lễ phép, đối đáp lại tinh khôn và rất đúng mực nên phú ông rất đỗi thương yêu.
Chàng Phùng sinh trưởng trong một gia đình khá giả, ăn uống rất đầy đủ nên chàng lớn rất nhanh, rất chững chạc lại hiền lành nên mọi người trong thành rất yêu quý chàng.
Nhưng vào năm chàng 13 tuổi, có một biến cố đã xảy ra, một con quỷ kinh tởm đã hóa phép làm cho chàng trở nên vô cảm, mất cảm giác, trên người chàng xuất hiện những vết lở loét nhỏ bằng đồng xu nhưng chàng vẫn không để ý gì lắm vì cho đó là một vài vết sẹo, thương tích nhỏ rồi sẽ khỏi. Chàng lập gia đình lúc 19 tuổi với một vị tiểu thư khác sinh đẹp tại kinh kỳ và có một cô con gái nhỏ. Hạnh phúc với chàng thật là đẹp: vợ hiền, con đẹp khôn nhưng cũng theo thời gian vết loét đó cứ to dần lên, lan rộng ra, khiến cho người ngợm chàng trai to lớn bỗng trở nên xù xì, chỗ đỏ, chỗ trắng ra trông rất tởm.
Vợ chàng sợ hãi không dám ăn chung, ở chung với chàng nữa. Chàng lại cô lập. Ngồi ăn cơm một mình, chàng buồn lắm, đám gia nô nhà chàng nhìn chàng sợ hãi, họ lánh xa chàng.
Rồi một lần, có một đám binh lính qua nhà chàng nghỉ chân tạm, trong số đó có một người là thầy lang, sau khi chia sẻ cùng vị thầy lang về bệnh tình của mình, vị thầy lang đó cho biết chàng đang bị hủi-nghe cái tin đó mà chàng như rơi ngay vào hố sâu của tuyệt vọng: đôi mắt chàng tự nhiên tối sầm lại, như mọi thứ vụt tắt trước măt chàng, chàng khóc, khóc dữ dội vì thấy mình bị một căn bệnh quái ác đến như vậy.
Ngay sau khi biết tin chàng Phùng bị bệnh hủi, có thể lây rất nhanh nên mọi người sợ hãi, đoàn binh lính vội bỏ đi ngay còn vợ con chàng thì bỏ về quê của cha mẹ đẻ.
Phú ông-cha đẻ chàng cũng buồn sầu rồi chết, gia đình ông tan nát. Giam mình trong hố sâu của nhục nhã, ê chề, của đau đớn tuyệt vọng chàng phùng chỉ biết khóc và tự than thân trách phận. Chàng căm phẫn ông trời vì không thương chàng một cảnh đời chớ trêu như vậy. Chàng ghen với các chàng trai tráng xung quanh chàng vì sao họ rạng ngời, hạnh phúc như vậy còn chàng thì…
Nỗi đau như tiếp nỗi đau, chàng giam mình trong bốn bức tường giá lạnh mà khóc mà tự mặc cảm với bản thân mình. Thế giới xung quanh chàng như tối đen lại, xám xịt và đầy u ám.
Còn ngoài kia con quỷ kinh tởm vẫn đang từng ngày làm mưa làm gió trên đầu chàng. Hắn cười đắc trí.
“Cuộc sống đối với ta là một vương quốc-vương quốc của bệnh tật, u buồn và tuyệt vọng. Ta sẽ cho ngươi sống một cuộc sống trong cô đơn và mặc cảm đến chết mới thôi. Ha Ha…”
Sau bao ngày chìm trong đau buồn và mặc cảm, chàng Phùng của chúng ta đã mở cửa, bước ra ngoài, chấp nhận lấy số phận đau thương của mình nhưng cũng từ đó đôi mắt chàng đã mờ đi và đục dần vì bao ngày than khóc. Chàng có thân người vạm vỡ, to lớn nên mọi người trong thành gọi chàng là “Chàng hủi to”.
Được một vị tiên ông giúp đỡ, chàng hủi to của chúng ta đã vượt qua khỏi mặc cảm tuyệt vọng. Và sau đó chàng hủi to được tiên ông đưa đến một vùng đất rất lạ-nơi đó có rất nhiều người mắc bệnh hủi như chàng, nhưng ở đó chàng cũng không thấy hạnh phúc. Chàng đã quay về gia đình để chia tay vợ trẻ vì chàng hủi to không muốn vợ trẻ của mình phải khổ sở nên chàng đã chọn giải pháp giải thoát cho nàng để nàng có thể tiếp làm những gì nàng thích mà không phải vấp phải rào cản nào: xong việc, chàng quay về vùng đất đó để sống, chàng hủi to cố gắng quyên đi những mặc cảm, sự xa lánh của mọi người nhưng không thể: chàng lại khóc, tiên ông lại hiện ra với chàng.
Này con ta biết vì sao con lại khóc. Vậy con muốn đi đâu ?
Chàng hủi to nước mắt lưng chòng, chàng thưa:
Con muốn đi tới một vùng đất thật xa, xa nơi này để con khỏi phải nghe những lời xì xào, bàn tán và xa con quỷ kinh tởm kia. Nó cứ theo dõi con, làm con khổ. Con không sao chịu nổi.
Vậy là chàng hủi to lại được tiên ông đưa đến một vùng đất mới có tên là Văn Môn-một nơi làm người hủi như chàng nhưng họ biết yêu thương và bao bọc lẫn nhau. Điều này làm cho chàng hủi to rất ấm lòng lại thêm sự yêu thương, chăm sóc của các nàng tiên áo trắng mà chàng hủi to như sống lại, như hồi sinh. Chàng cảm nhận thật hạnh phúc.
Ở Văn Môn, chàng cảm thấy như mình đang được hồi sinh, sống năng động và vui vẻ hơn rất nhiều. Một lần, chàng đang ngồi trên giường bệnh thì con quỷ kinh tởm xuất hiện, nó nói:
Thằng kia không ngờ mày lại vượt qua được sự giằng xé đến nghiệt ngã của tình cảm và của bệnh tật đến như thế. Tao rất khâm phục mày, mày rất xứng đáng là một người được ta yêu quý. Ta sẽ bỏ lời nguyền của ta đối với ngươi. Ta ước gì ta cũng có thể được ở vào địa vị như ngươi để mà được yêu thương như ngươi vậy. Không ngờ một quốc vương của loài quỷ như ta lại bị khuất phục bởi tình yêu và sự can đảm. Thật là một tình yêu có phép lạ. Ta sẽ từ bỏ, ta sẽ từ bỏ thôi…
Rồi con quỷ kinh tởm đó biến mất và từ đấy chàng hủi to không còn nhìn thấy con quỷ đó nữa.
Ở một vùng đất mới, được sự quan tâm rất gần gũi của các cô tiên áo trắng và sự đồng cảm cả những người đồng cảnh ngộ. Chàng hủi to như quên hẳn những nỗi đau giằng xé trong thể xác và tâm hồn của chàng chàng say sưa trong tình yêu và hạnh phúc. Với chàng, tình yêu là một động lực khiến chàng sống vui, sống tốt và sống có ích hơn.
Chàng thường đọc cho các bạn đồng cảnh ngộ như mình một bài thơ-một phương châm sống để chàng sống tốt hơn. Bài thơ của nhà sư Thượng tọa Thích Chân Phương-một tiên ông của những mảnh đời bất hạnh.
“Gặp nhau ta hãy cứ vui
chuyện đời như nước chảy hoa trôi
lợi danh như đám mây chìm nổi
chỉ có tình thương để lại đời”
Sẵn có tài văn chương, chàng hủi to bắt đầu cắt nghĩa cho những người xung quanh hiểu về bài thơ mà cũng như khẳng định với mọi người về tình yêu và niềm hạnh phúc khi những người đau khổ, hoạn nạn có được những người đồng cảm đưa tay giúp đỡ. Đưa tay kéo những mảnh đời, những tâm hồn đau khổ ra khỏi bùn lầy của tuyệt vọng và mặc cảm. Chàng hủi to nói:
“Dù chúng ta-những người bệnh phong-có đau đớn về thể xác vì bị trùng Han Sen cắn xé, bị những nỗi đau về tinh thần vô cùng ghê gớm nhưng khi gặp “bạn”-những người bạn lớn thì hãy cứ nén lòng lại, vì gặp bạn thì phải vui, phải cười. Ở đời, nhiều chuyện đến rồi đi cả vui lẫn buồn, cả đau đớn và mặc cảm sẽ qua đi, sẽ trôi đi như bông hoa giữa dòng nước. Hoa gặp sóng yên thì tôt tươi an toàn như những mảnh đời những người phong gặp được những người tốt, những mái nhà tình thương, che trở như Văn Môn vậy. Còn khi gặp bão tố phong ba, hoa sẽ tan nát giống như những anh em cùng cảnh ngộ chúng ta, bị xã hội xa lánh, kinh tởm, họ bị chôn sống, bị buông sông, thật tội nghiệp!!!” chàng nói và chàng lại khóc, rồi những người xung quanh chàng cũng khóc, họ khóc cho số phận mình và khóc cho những người xấu số. Rồi chàng hủi to lại nói tiếp:
“Ở đời lợi danh, tiền bạc đều là hư vô bởi nó có rồi sẽ mất đi, không thể làm được điều gì. Nhưng chỉ có tình yêu, tình yêu để lại muôn đời”. Ông nói:
“Chỉ vì yêu thương chúng sinh mà Đức Chúa Trời đã ban con một mình xuống thế, làm người, chịu nạn chịu chết trên cây thánh giá mà cứu chuộc tội cho thiên hạ. Hay Phật thích ca chỉ thấy cảnh sinh linh tội lỗi, lầm than, trụy lạc, mà đã từ bỏ thân phận làm một chàng hoàng tử giàu sang phú quý đi tu để siêu sinh tịnh độ cho nhân thế ”.
Họ là những tấm gương suốt đời yêu thương, dám xả thân vì đồng loại. Họ thật là cao cả.
Nhưng chính khi chàng hủi to và đồng bạn đồng cảnh ngộ với chàng cũng đã gặp thấy tình yêu từ những ân nhân, những quý việt kiều ở các quý quốc bên cạnh đến thăm hỏi, sẻ chia giúp đỡ họ. Chàng hủi to rất hạnh phúc và lấy đó làm phương châm sống cho cuộc đời mình. Chàng sống ở Văn Môn rất vui và hạnh phúc dù cho căn bệnh hoành hành gây đau đớn.
Tháng tháng trôi qua, chàng hủi to giờ đây đã trở thành một ông Phùng-một ông hủi to rất lạc quan và yêu đời.
Năm ông 66 tuổi, ông đã bị phẫu thuật cắt đi đôi chân vì loét ổ gà. Ông cũng buồn lắm nhưng biết làm sao được, bệnh tật mà !
Ông hủi to giờ đây đã già rồi, hai bàn tay không còn lành lặn nữa: mất hết ngón tay, đôi bàn chân và hai ống chân không còn, ông phải đi bằng đôi chân giả-món quà của ông tiên đáng kinh dành cho tất cả những ai bị cắt đi đôi chân như ông.
Có nhiều lần ông đau đớn vì vết thương thể xác và nghe tin cô con gái sợ ông, không dám xuống và thằng cháu ngoại ông bị con qủy cần sa cám dỗ. Ông đau buồn lắm ! Nhưng ông tin vào đấng Tình Yêu-Đấng mà ông sẽ nguyện tôn thờ suốt cuộc đời này. Vì ông tin rằng và nhận thấy được vị thần Tình Yêu đó ở trong mỗi người xung quanh, trong những tông đồ mà ngài sai đến với ông hủi to và với những người cùng cảnh như ông Hủi to.
Các bạn ạ!
Không phải là không thể vượt qua được thử thách khó khăn của cuộc sống. Nếu chúng ta không có lòng tin thì một chuyện nhỏ cũng không thể vượt qua được. Nhưng nếu chúng ta vững lòng tin thì sẽ không có trở ngại nào không thể vượt qua được. Giống như nhân vật chàng hủi to-chàng Phùng-nhân vật chính trong chuyện-một cuộc đời tuy đau khổ, tuyệt vọng nhưng phải biết vươn lên, đương đầu và hạ gục nó. Họ tin vào sức mạnh của tình yêu và sự cảm thông của đồng loại dành cho họ. Và những người đau khổ đó đã sống và chiến thắng bệnh tật được là vì tình yêu.
Vầng, tình yêu là động lực đem lại sự sống đến cho những tâm hồn héo úa. Vậy bạn và tôi có suy nghĩ gì về điếu này. Có bao giờ bạn nghĩ. Mình có thể làm gì cho những người xung quanh các bạn nhất là những người cùng khổ chưa ?
Nếu có, bạn sẽ làm gì ?
Hy vọng bạn sẽ cho họ một tình yêu dù nhỏ. Các bạn nhé
!

Hiếu Ngọc - Văn Môn