Wednesday, June 20, 2007

PICTURES OF K 10 - NAM-ZIN (DIEN BIEN)
AND SONG MA (SON LA)
LEPROSY VILLAGES OF WEST NORD VIET NAM.











PICTURES OF K 10 - NAM-ZIN (DIEN BIEN) AND SONG MA (SON LA) LEPROSY VILLAGES OF WEST NORD VIET NAM.

Monday, June 4, 2007

Chuyện Đời Tôi

-Hiếu Ngọc-

Xin chào các quý ông, quý bà, các cô dì và toàn thể các ân nhân và các bạn!
Tôi là: Trần Văn Nhâm, sinh năm 1910 ở tỉnh Hưng Yên.
Năm nay tôi đã 97 tuổi rồi. Tôi rất tự hào về tuổi tác của mình vì có thể nói tôi đẹp trai nhất Trại Phong Văn Môn này. Tôi đến trại Văn Môn năm 1965- khi Văn Môn còn là một trại nghèo nàn và toàn bộ là chuối. Văn Môn xưa và nay tuy có nhiều đổi thay nhưng hơi ấm tình thương yêu thì không bao giờ thay đổi và tôi thấy nó còn nhiều tình thương hơn nữa. Vì chúng tôi được nhận sự quan tâm của Ban Giám Đốc, của các Cha, các Thầy và các quý ân nhân.
Từ khi đến sống ở Văn Môn tôi thấy cuộc đời tôi như thay đổi hẳn. Tôi không còn cô đơn nữa. Tôi vui lăm vì tôi được nhà nước, ban giám đốc trại Văn Môn, các ân nhân giúp đỡ nên tôi thấy tôi thoải mái hơn, yêu sự sống hơn và thấy cuộc đời đẹp hơn.
Đứng ở mốc thời gian này, nhìn lại những biến cố đau khổ của cuộc đời. Tôi không khỏi bàng hoàng, chua xót và lo sợ. Có lúc tôi nghĩ nếu những người bệnh phong như tôi không có chỗ nương tựa, để sống thì không biết chúng tôi sẽ ra sao nữa? không hiểu rồi chúng tôi có còn sống trên cõi đời này để nhận sự quan tâm của mọi người không nữa. Nên khi kể lại cuộc đời mình tôi chỉ thấy chua xót và đắng cay.
Tôi sinh ra trong một gia đình rất nghèo tại Liên Khê-Khoái Châu tỉnh Hưng Yên. Gia đình tôi nghèo lắm lại đông con. Bố mẹ tôi được bốn anh chị em tôi. Nhà nghèo lại đông con nên cha mẹ tôi làm vịêc rất vất vả. Mà hồi ấy làm gì có ruộng mà trồng cấy, làm gì có gạo ăn, chỉ toàn củ chuối và khoai độn khổ lắm.
Vì nhà nghèo lại đói kém nên mẹ tôi sớm qua đời rồi hai chị và anh trai tôi cũng bỏ gia đình ra đi về cõi vĩnh hằng. Cực lắm anh chị ạ!
Bố tôi từ đó cũng suy sụp tinh tinh thần nhưng vẫn gắng gượng nuôi con, rau cháo qua ngày. Hai bố con tôi rắt nhau đi ăn xin, đi làm thuê để lấy cái gì đó nuốt vào bụng.
Thời gian cứ dần trôi qua, đến năm tôi 19 tuổi, tôi đã lập gia đình cùng với một cô gái cùng làng, sinh được bốn người con cũng hai trai, hai gái. Đẹp lắm đấy anh chị ạ! Vậy mà trong nạn đói đó đã mang đi của tôi người vợ trẻ và hai người con gái lớn. Sau ba năm thì cậu con trai thứ ba của tôi cũng qua đời vì không chịu được con đói khủng khiếp. Thật là đau khổ vì sao ông trời lại mang đi của tôi nhiều niềm yêu thương và người thân đến vậy. Tôi hận ông trời lắm! Gia đình tôi có sáu người giờ đây chỉ còn lại hai người: tôi và con trai út.
Nhưng cuộc đời của tôi không chỉ toàn niềm đau thương mà còn cộng thêm cả sự nghiệt ngã của bản thân mình. Sau lần đi tiêm tại bệnh viện huyện, tôi đã nhận được một tin sét đánh: Tôi đã bị hủi vì theo bác sỹ khám bệnh cho tôi thì tôi bị mất cảm giác vùng cánh tay và thế là họ bảo tôi là hủi. Nhục nhã lắm các anh chị ạ!
Hàng xóm biết chuyện họ xa lánh bố con tôi. Họ nhìn cha con tôi với một con mắt tò mò, lạnh nhạt và khinh dẻ. Tôi khổ tâm lắm. Tôi đã không ít lần nghĩ tới sự chết cho thoát khỏi nỗi đau này nhưng lại không thể vì tôi còn đứa con út là thằng Hào. Tôi không muốn con tôi bơ vơ trên cõi đời này.
Vậy là tiếp tục sống, làm thuê để nuôi con. Gà trống nuôi con cái cảnh ấy sao mà khổ vậy. Ăn đói, mặc rách, bị mọi người xa lánh, đánh đuổi. Hai cha con tôi không có nhà, chỉ ở tạm chỗ này chỗ nọ trong làng. Họ chê chúng tôi là thằng hủi, bố hủi thì chắc thằng con cũng hủi nên họ không cho về nhà vì nhà tôi đã bị đốt mất rồi vì dân làng cho đó là nơi con hủi sinh sống.
Đau lòng lắm, hai cha con tôi đi khất thực khắp nơi. Nghĩ tới cảnh này mà tôi không cầm được nước mắt. Hai cha con cứ đi làm thuê vài tuần ở nơi khác xong lại về trú ngụ tại một túp lều nhỏ ngoài vườn hoang. Lắm lúc thằng Hào con tôi rét, ốm mà vào làng xin ăn mà họ cũng không cho. Mà tôi thấy con tôi đâu có tội.
Ở túp lều đó, mưa thì rột như ngoài trời, nắng chiếu xiên qua mái lều, gió lùa rét lắm nhưng hai cha con vẫn cố gắng che chở cho nhau. Đến năm con trai tôi lên mười tuổi, tôi cho con tôi đi học nhưng không ít lâu sau cháu phải bỏ học về nhà trong lúc khóc trông rất tội nghiệp. Tôi hỏi làm sao, cháu Hào nói: Chúng nó bảo con là con nhà hủi, chúng nó không cho con ngồi cùng bàn, chúng nó lại chêu con và đánh con nữa.
Con không muốn đi học nữa. Bố ơi! Con sợ chúng nó lắm! Bố ơi! Con có phải là con nhà hủi không?
Câu hỏi của con tôi làm tôi đau lòng không sao tả nổi, trái tim tôi như bị ai bóp nghẹt, tôi thấy trời đất tối sầm và tôi ôm con tôi khóc òa lên. Tôi thấy số mình cay nghiệt quá, đau khổ quá.
Tôi và con tôi sống như thế trong nhiều năm, sau chúng tôi được trung tâm Y tế huyện Khóai Châu chỉ đường sang trại Văn Môn này.
Nghe họ nói thế, tôi đưa con tôi đi luôn, không còn muốn đứng thêm ở cái mảnh đất kinh tởm ấy một tí nào nữa.
Được sang Văn Môn, tâm hồn tôi tự nhiên thấy thoải mái, tin tưởng hơn. Năm 1965, tôi đã đặt chân vào vùng đất Mới-Vùng đất Văn Môn-trại Chuối-tuy Văn Môn nghèo lắm: nhà tranh, vách đất nhưng lại có tình người rất sâu đậm. Mọi người ở Văn Môn giúp đỡ tôi rất nhiều: các bác sỹ thì lo chữa bệnh cho tôi, các bệnh nhân ở đó thì chia sẻ, đồng cảm cùng với tôi nên tôi rất yên tâm.
Đến Văn Môn, tôi đã cho thằng út nhà của tôi cho một người ngoài trại nuôi khi đó nó đã 13 tuổi rồi. Thằng bé, nó ngoan lắm nên bố mẹ nuôi có cũng rất yêu quý nó và cho nó đi học.
Năm 17 tuổi, Thằng Hào con tôi đi lao động làm công nhân ở Quảng Ninh nên từ đó tôi sống một mình.
Sống ở Văn Môn vui cũng nhiều và buồn cũng nhiều lắm. Tôi buồn vì gai đình tôi, họ hàng nhà tôi không còn ai mà thăm tôi nữa, con trai thì đi làm xa, tôi cũng thấy bị mặc cảm vì bệnh tật: nhưng vui vì có được những người thực sự hiểu, cảm thông, chia sẻ và yêu thương mình.
Vui là vui lắm!
Cuộc sống dần dần trôi qua tại trại Văn Môn đầm ấm đó, giờ đây tôi đã gần 100 tuổi rồi. Đôi chân tôi đã bị cắt gần 10 năm nay vì bệnh, đôi mắt tôi nhìn không rõ lắm. Tuy có không đi lại được nhưng không vì thế mà tôi thấy buồn. Tôi thấy có nhiều lần, có những vị ân nhân còn tới tận giường tôi, bắt tay tôi, chụp ảnh tôi. Tôi rất vui. Nhưng vui nhất là đầu năm 2007, vừa rồi tôi đã được hai người cao tuổi tổ chức mừng thọ 100 tuổi cho tôi. Tôi phấn khởi lắm!
Thật sự, Văn Môn làm tôi hồi sinh. Tôi thấy mình sống lại trong một câu truyện cổ tích vậy.
Tuy trùng Han Sen có cắn xé tôi thế nào, tôi vẫn không thấy buồn mà tôi coi đó là một nỗi đau nhỏ của mình thôi. Tôi chỉ mong sẽ có thật nhiều các vị ân nhân đến đây thăm chúng tôi, chia sẻ bệnh tật với chúng tôi. Và chỉ mong sẽ không ai còn khinh dẻ, lạnh nhạt với chúng tôi- những người bệnh phong nữa!
Vâng, cuộc đời có thật nhiều cái to lớn, có giá trị nhưng tình yêu thương của mỗi người dành cho mỗi người-nhất là người phong cô đơn, xa lánh thì đó là một món quà vô giá. Cuộc đời sẽ sáng hơn nếu mỗi người trong chúng ta góp và đốt lên ngọn nến sáng cháy yêu thương.

Ngày xửa...

Ngày xửa, ngày xưa, tại một làng nọ thuộc Thái Bình, có một đôi vợ chồng nghèo tên là Nguyễn Thi và Nguyễn Ba. Hai vợ chồng này nghèo lắm lại sinh được 5 người con, nên vợ chồng Nguyên Ba phải nai lưng làm lụng để kiếm rau cháo nuôi con.
Nhưng khi sức cạn, lực kiệt, gia đình sa sút nặng nề, bà Nguyên Thi lại có mang và sinh thêm được một người con gái.
Vì gia đình quá nghèo nên không có tiền để làm mâm cơm tươm tất làm lễ đặt tên cho cô con gái. Bà Nguyên Thi buồn bã, khóc lóc. Nhưng ông Nguyên Ba vẫn cố gắng lạc quan hơn vợ. Ông an ủi: mình cứ yên tâm, các con lớn mình vẫn có thể nuôi được tuy có đói rách nên đứa bé này vợ chồng mình cũng sẽ cố nuôi dưỡng nó, mình yên tâm.
Nhưng bà Nguyên Thi vẫn rất lo lắng:
Nhà nghèo, tiền lại không có, không có ai nhận đỡ đầu cho con mình, ông ạ!
Ông cười nói:
Không sao! Ông trời đã sinh ra con gái chúng ta thì nó ắt có sự sống, ắt sẽ có người đỡ đầu trong lễ đặt tên cho con mình thôi. Hãy cứ để tôi đi tìm xem. Nếu ra đường tôi gặp ai, tôi sẽ mời người đó về nhà làm người đỡ đầu cho con gái mình.
Nói rồi, đoạn ông ra khỏi nhà, toan đi tìm người mà ông mong muốn nhưng vì hôm đó trời lại mưa to, lạnh lẽo nên đi mãi mà không gặp ai cả. Đến khoảng xế chiều, ông gặp một người mặc quần áo đen đúa, đầu tóc xõa xợi. Ông đoán biết là mụ phù thủy xấu xa nên ông lẩn tránh, ông trốn vào một bụi cây gần đó.
Sau đó ông lại xé rừng, băng suối đi tìm người đó. Trời tối sầm lại, mệt mỏi, đói kém, ông gục xuống bên một gốc cây to. Khi tỉnh lại ông gặp một vị thánh nhân tóc bạc, râu dài. Sau khi kể rõ đầu đuôi câu truyện, vị thành nhân đó đồng ý theo ông về nhà làm người đỡ đầu cho con gái ông.
Vậy là cô bé được cha mẹ và thánh nhân đưa đến nhà thờ để làm lễ đặt tên.
Đang trong lúc tất cả mọi người đặt tay chúc phúc cho cô bé Nguyên Hy thì có một tiếng cười lớn vang lên. Đó là mụ phù thủy xấu xa mụ cười nói ầm ĩ.
Tại sao ? tại sao? khi gặp ta trên đường nhà ngươi lại không mời ta về dự trong lễ đặt tên của con bé này. Vậy ta sẽ cho nó một lời chúc: Chúc cho nó gặp thật nhiều khó khăn và bệnh tật đầy mình. Thật là một lời chúc độc ác.
Còn vị thánh nhân, vị ấy cười hiền lành và đặt tay lên đầu cô bé Nguyên Hy mà nói:
Ta sẽ ban cho con sự sống dài lâu, tuổi thọ dài lâu và sức mạnh ý chí để vượt qua mọi khó khăn trong cuộc sống.
Nói xong, thánh nhân bỏ đi, lúc đó ông bà Nguyên Ba mới biết đó là vị thần ban tuổi thọ. Ông bà thầm cầu nguyện, cảm tạ vị thánh nhân đó. Còn cô bé Nguyên Hy lớn rất nhanh, rất ngoan và lanh lợi ông bà tuy ngày ngày chỉ lo cho các con ngày một bữa cháo loảng ăn cùng củ chuối nhưng các con ông bà lớn rất nhanh và rất ngoan.
Năm Nguyên Hy 4 tuổi, ứng lời nguyền của mụ phù thủy nàng đã gặp một căn bệnh rất lạ: trên người xuất hiện những mụn, ổ loét to dần và có điểm sát, rất rát và véo không thấy đau.
Thấy vậy ông bà Nguyên Ba sợ hãi, lo chạy hết thầy lang nọ đến thầy lang kia nhưng không đỡ.
Dần dần vết loét đó lan dần xuống chân trái, lên đùi, lên má trông rất là sợ hãi.
Nhưng bà Nguyên Thi vẫn lo chạy chữa nhưng tiền mất tật mang. Gia đình nhà cô bé Nguyên Hy đói nghèo lại đói nghèo thêm. Rồi trong nạn đói khủng khiếp, ông Nguyên Ba và các anh chị em của cô bé Nguyên Hy đều bị tử thần cướp đi chỉ còn lại có bà Nguyên Thi và cô con gái. Khi 17 tuổi trông cô nàng Nguyên Hy rất xinh đẹp nhưng ngặt một nỗi người nàng lại toàn những ổ loét đỏ tím trông rất đáng sợ rồi đôi bàn tay dần dần co rụt. Bà Nguyên Thi đau lòng lắm và cũng tuyệt vọng, ít lâu sau bà cũng qua đời. Nàng Nguyên Hy sống một mình, thui thủi, hàng xóm sợ hãi, xa lánh khiến nàng rất tiều tụy. Nàng phải sống chui lủi nay đây mai đó để tránh bọn quan binh nhà pháp. Bọn chúng chỉ cần nghe tin có người mắc bệnh nan y mà ngày đó là bệnh phong cho vào trại tụ tập và sau đó đêm chôn sống, rất là sợ hãi, nàng Nguyên Hy xin được đi Hà Nội nhưng không được và sau đó chốn sang Văn Môn-một nơi thắm tình đồng cảm. Nơi quy tụ những cảnh đời bất hạnh.
Ở đó nàng Nguyên Hy như có thêm nghị lực để sông tiếp cuộc đời. Đến Văn Môn, nàng thấy tâm hồn được an ủi, được sống lại và hồi sinh mạnh mẽ. Tại đây, nàng được các thầy lang áo trắng chữa bệnh rất tận tình, rồi lại được các cô tiên xinh đẹp chăm sóc tân tình. Nàng còn trẻ, lại rất đoan trang, hiền hậu và tại mảnh đất Văn Môn ấy, nàng đã kết duyên cùng một chàng trai cùng cảnh ngộ như nàng. Cuộc sống rất hạnh phúc. Hai người đã có với nhau 4 người con nhưng do hoàn cảnh bệnh tật nên hai người đành phải sẵn lòng cho cả 4 người con của mình đi. Đau buồn lắm, nhưng biết làm sao được.
“Tất cả vì tương lai con em” mà . Nàng Nguyên Hy nói với chồng như vậy.
Cuôc sống êm đềm, hạnh phúc gia đình trôi đi nhanh. Chung sống đựoc 20 năm thì ông chồng nàng bỏ đi sang thế giới khác bỏ lại nàng bơ vơ một mình.
Quả thật, hạnh phúc sẽ chẳng ở lại lâu với bất cứ ai và bất cứ người nào cả. Hạnh phúc- đau thương như đồng hành song song. Nhưng cũng từ đó bệnh tật của nàng lại đau tăng lên. Hai chân sưng tấy, đau đớn, đau không sao chịu nổi. Lắm khi đau quá nàng không sao ngủ được nàng ngồi than khóc một mình. Và lại bắt đầu nghĩ đến cái chết. Nàng đứng giữa hai người, một bên là mụ phù thủy với lời nguyền rủa cùng sự cùng sự tuyệt vọng tột cùng. Nhưng một bên là vị thần tốt bụng với những nụ cười dễ mến. Vị thần tốt bụng nói.
“Con người sinh ra trên đời để sống, để yêu thương và để chia sẻ sự chết có thể đưa con người đi bất cứ lúc nào. Đó là quy luật.
Nhưng bản chất con người thì phải biết vượt qua nghịch cảnh, đối diện với chết chóc và đau đớn tuyệt vọng. Còn có thể nghĩ đến cái chết vì bệnh tật làm con người đau khổ. Nhưng con hãy mỉn cười với khó khăn, đau đớn để chiến thắng nỗi đau và để yêu thương” .
Lời nói thật giản dị của vị thần đó nhưng lại là động lực để nàng Nguyên Hy sống tiếp cuộc đời còn lại.
Tuy vì căn bệnh phong cùi đã cướp đi của nàng nhiều thứ như chồng nàng, chân tay, thể xác nàng nhưng Văn Môn lại đem lại cho nàng sự trẻ lại, sức sống trong tâm hồn đau khổ của nàng.
Hơn nửa thế kỷ sống ở vùng đất Văn Môn, đã trải qua nhiều sóng gío của cuộc đời, nàng Nguyên Hy giờ đây đã trở thành một bà lão 83 tuổi, cụt hai chân, 2 tay, đôi mắt mù lòa rồi nhưng tôi vẫn nhận thấy trong bà sự trẻ trung, lạc quan của một tâm hồn. Cuộc sống với nhiều thăng trầm, hỗn độn cùng nhiều thử thách khiến cho con người rơi vào vòng xoáy luẩn quẩn nhưng cuộc đời cũng là một trang nhật ký tâm hồn rất bổ ích.
Với bà Hy giờ này, chuyện cũ như để lại trong bà một nỗi ám ảnh ghê gớm cùng nỗi đau về thể xác vì bị trùng Han Sen cấu xé nhưng đổi lại bà có thêm tình yêu vào cuộc sống.
Có đôi lúc, ở trong nhà tập thể, bà không khỏi có những ý nghĩ quẩn quanh, tủi hận khi nhìn thấy những người xung quanh bà nằm đó vật vã, kêu la mà cũng có người nằm như một khúc gỗ. Bà sợ lắm ! bà nói:
“Tôi rất sợ vì ngày lại ngày đôi mắt tôi ngày càng mờ đi, chân tay vẫn đau đớn, rúc rỉa, lúc đó tôi không khỏi nghĩ đến cái chết vì tôi muốn Chúa đưa tôi về sớm để khỏi phải chịu cảnh khổ đau như thế. Giờ đây, tôi chỉ có thể ngồi trên giường chứ đâu có thể làm được gì. Trông thế gian mờ mờ, ảo ảo. Tôi cũng rất là buồn. Nhưng cũng tạ ơn Chúa vì Chúa còn cho tôi sự quan tâm chăm sóc qua gia đình qua các ân nhân trong nước cũng như ngoài nước, qua cơ quan ban giám đốc khu điều trị Phong-Da liễu Văn Môn rồi qua tất cả mọi người.
Tôi tự hào khi được sống ở Văn Môn vì Văn Môn và bạn bè của Văn Môn đem đến cho tôi và những người bệnh tật niềm tin vào sự sống. Xin cám ơn tất cả”.
Vâng! Có thể nói rằng, trong đời không ai đau khổ suốt đời mà cũng không ai hạnh phúc suốt đời cả. Nhưng cuộc sống cộng đồng với sự chia sẻ sâu sắc thì tôi chắc hẳn trên đời này sẽ không có ai thấy mình cô đơn và đau khổ cả.
Xin quý vị và mọi người hãy cho những người bệnh tật, khó khăn một chút “Yêu Thương”!!!

Hiếu Ngọc