Monday, December 20, 2010

Sunday, November 28, 2010

CẦU MONG

Bùi Hiếu Ngọc

Xin gửi tới các quý vị là ân nhân, thân nhân và những người bạn của tôi những lời nguyện cầu tốt đẹp nhất. Xin cảm ơn các quý vị đã luôn đồng hành và giúp đỡ tôi trong cuộc sống.

- Cầu mong bạn sẽ tìm được sự thanh thản và bình yên trong một thế giới có nhiều điều mà bạn không thể hiểu được.
- Cầu mong nỗi đau bạn chịu đựng cũng như những xung đột mà bạn từng trải qua sẽ trao cho bạn sức mạnh để bạn vươn lên, đối diện những thử thách với lòng dũng cảm và sự lạc quan. Bạn hãy luôn biets rằng có một người nào đó hiểu và yêu bạn, người đó luôn ở cạnh bạn ngay cả khi bạn cảm thấy cô độc nhất.
- Cầu mong bạn sẽ khám phá sâu sắc lòng tốt của người khác để tin tưởng vào một thế giới yên bình.
- Cầu mong một lời tử tế, một cử chỉ làm yên lòng, một nụ cười nồng ấm sẽ được tặng cho bạn hàng ngày.
Và, cầu mong bạn hãy trao tặng những món quà như vậy cho người khác ngay khi bạn nhận được chúng. Hãy nhớ, mặt trời luôn chiếu sáng khi cơn bão có vẻ như kéo dào vô tận. Bạn hãy hiểu rằng một người yêu thương bạn thật sự là khi họ không ở cạnh bạn nhưng bạn vẫn cảm nhận được tình yêu và sự quan tâm của người ấy.
Hãy nhớ rằng trong cuộc sống những va chạm và đau khổ mà bạn gặp phải sẽ ít hơn nhiều so với những ước mơ và hạnh phúc mà bạn có.
- Cầu mong những điều mà bạn cảm thấy là khuyến khuyết trong hiện tại sẽ trở thành thế mạnh của bạn trong tương lai. Cầu mong bạn nhìn thấy tương lai của bạn như là một người đầy đủ sự hứa hẹn và những khả năng.
- Cầu mong bạn tìm thấy đầy đủ sức mạnh tinh thần để tự quyết định trong những tình huống tệ nhất mà không bị bất cứ người nào phán xử vì kết quả đó.
- Cầu mong bạn luôn luôn cảm thấy được yêu thương

Thursday, November 11, 2010

Saturday, November 6, 2010

Monday, October 18, 2010

MẸ ! CON CẢM ƠN MẸ !

Mẹ kính yêu !
Có lẽ con phải nói câu : " Con cảm ơn mẹ " đã từ lâu lắm rồi! Vậy mà cho đến bây giờ con vẫn chưa bao giờ nói câu ấy với mẹ . Con thật lòng xin lỗi mẹ và cám ơn mẹ nhiều lắm.
Con cảm ơn mẹ vì mẹ đã mang nặng đẻ đau rồi sinh ra con, nuôi nấng và chăm sóc con từng ngày.
Con cám ơn mẹ đã chịu bao đau khổ, hi sinh, vất vả suốt đời vì con. Dù cho con chưa bao giờ nói câu cảm ơn đến mẹ nhưng trong thâm tâm con, con luôn cảm ơn mẹ.
Từ khi mang thai con, mẹ đã vất vả. Từ khi sinh ra con mẹ còn vất vả hơn nữa để lo lắng, chăm sóc, dạy dỗ con nên người. Con biết đã nhiều đêm, mẹ thức trắng vì bệnh tật của con. Rồi nhiều đêm mẹ trằn trọc, suy tư về tương lai của con và của gia đình ta sau này. Tuổi tác đã hằn lên đôi mắt, đôi tay, thân thể mẹ. Mẹ đã đang già đi thật rồi vì thời gian, vì gánh nặng gia đình và vì tất cả mọi chuyện của cuộc sống đè nặng lên đôi vai mẹ. Nhưng con vẫn thấy mẹ mỉm cười mà không một lời than thở. Mẹ ơi! Mẹ biết không? Chính nụ cười hiền hậu và nhân từ ấy đã dạy con bài học đầu tiên khi vào đời: đó là hãy luôn mỉm cười dù cuộc sống có nhiều thử thách và khó khăn.
Trong mắt con mẹ luôn là Thiên Thần, tuy không có cánh, không vòng Thánh nhưng với con mẹ rất đẹp và đẹp hơn cả Thiên Thần nữa!
Ngồi nhớ lại những ngày thơ ấu, con đã rất tinh nghịch, quậy phá, mẹ đã đánh con, những cái roi ngày đó sao mà đau quá mẹ ạ! Lúc đó con đã khóc rất dữ dội, đúng không mẹ? Lúc đó con đã rất giận mẹ nhưng con biết khi đánh con lòng mẹ cũng đau xót và thương con lắm. Mẹ không cho con đi nắng, không cho con tắm ao, không cho con nghịch bẩn và luôn dành cho con những cái roi khiến con đau chết điếng mỗi khi con phạm lỗi. Lúc đó, con đã rất ghét mẹ vì con nghĩ mẹ ghét con nên mẹ đánh con, mẹ không yêu thương con.
Nhưng bây giờ khi đã lớn khôn, con mới biết và cảm ơn mẹ vì sự nghiêm khắc đến yêu thương vô bờ mẹ đã dành cho con. Con đã nên người từ chính những cái roi đau đớn ấy của mẹ. Con cảm ơn mẹ nhiều lắm !
Khi con bắt đấu bước chân vào cấp III, rồi vào trường trung cấp thì mẹ vẫn là người lo lắng nhất cho con. Có nhiều khi bố con vắng nhà , đi làm xa thì gánh nặng kinh tế của gia đình lại một mình mẹ lo.


Có những mùa đông lạnh giá, khi mọi người vẫn còn ngủ ấm trong chiếc chăn bông thì mẹ của con lại phải thức dậy, đi ra nghĩa địa để làm cái công việc mà có lẽ đối với một số người thì đó là một công việc hết sức tầm
thường đó là chôn xác những người chết và thay nhà mới cho những xác chết đã lâu năm. Con còn nhớ khi đó mẹ đã nói:
" Vì miếng cơm manh áo, tiền học tập của các con mà mẹ sẵn sàng làm mọi việc dù là gian khổ và khó khăn nhất "
Câu nói ấy của mẹ khiến cho trái tim con vỡ tung ra vì con đã cảm nhận được tình yêu thương thự sự mẹ dành cho con.
Mẹ ơi! Con muốn nói rằng: con chưa bao giơ thấy tủi thân hay xấu hổ vì bố mẹ yêu dấu của con làm nghề mai táng cả mà ngược lại con còn thấy tự hào vì con được làm con của bố mẹ! Có những lần con đã ngồi khóc một mình, con khóc không phải vì tủi thân mà vì con thấy thương mẹ và yêu mẹ biết bao.
Tuy gia đình ta còn khó khăn nhưng chính tình yêu mà mẹ dành cho chúng con đã tiếp thêm sức mạnh để con học tập và sống thật tốt trước cuộc đời.
Bây giờ con đã trở thành một y tá- được chăm sóc sức khỏe cho tất cả mọi người đặc biệt là những người bệnh phong, con càng cảm thấy hãnh diện vì cái nghề cao quý ấy chính mẹ đã hướng dẫn cho con. Con cảm ơn mẹ.
Có những người mẹ rất giàu có, tiền của nhiều và là những qúy bà hết sức sang trọng trước mặt mọi người, được thế gian ngưỡng mộ, cung phục. Nhưng những người đó cũng sẽ không bao giờ đẹp bằng mẹ của con cả. Tuy đối với thế gian mẹ chẳng là gì cả nhưng đối với con mẹ là tất cả, mẹ là món quà vô giá mà Thượng Đế đã ban tặng cho bố con và cho cả chúng con nữa nên mẹ là nhất và không có gì có thể so sánh được với mẹ Nghĩa của con cả. Con yêu mẹ nhiều lắm! Tuy không bao giờ nói ra điều này nhưng mẹ kính yêu của con, con xin lỗi mẹ vì những gì con đã làm cho mẹ phải phiền lòng và xin hứa với mẹ con sẽ sống thật tốt trong bổn phận làm con thảo hiếu, làm tròn bổn phận trong mọi công việc để xứng đáng với công ơn dưỡng dục mà bố mẹ đã dành cho con.
Nhân kỉ niệm 80 năm ngày thành lập Hội Liên Hiệp Phụ Nữ Việt Nam 20 -10, con xin được bày tỏ lòng cảm ơn sâu sắc đến mẹ, con kính chúc mẹ mạnh khỏe, hạnh phúc, bình an và sống lâu trăm tuổi. Con yêu mẹ và yêu mẹ mãi mãi!
Con gái của mẹ
Bùi Hiếu Ngọc

Tuesday, September 28, 2010

SUY NIỆM : CUỘC SỐNG CỦA MỘT CON NGƯỜI

Lạy Chúa, chiều nay là chiều thứ 7, người đàn ông mang tên Phạm Văn Bớp vẫn đến nhà thờ tham dự Thánh lễ như thường lệ. Vẫn đôi nạng dò dẫm và đôi chân thận trọng, ông ấy khùa khùa từng bậc để lên từng bậc để lên cửa nhà thờ, cúi chào Thánh Thể một cách cung kính rồi lại dò dò vào chỗ ngồi, làm dấu Thánh giá và đứng thinh lặng một lúc rồi ngồi xuống ghế. Vẫn hành động ấy, cử chỉ ấy hành ngày vẫn diễn ra vậy mà nó luôn mang lại cho con cảm giác khâm phục và xúc động. Con liên tưởng tới một lời thánh ca:
“Con mù loà con không thấy Chúa nhưng Chúa hằng ở mãi trong con”và “ hãy lấy đức tin bù lại nếu giác quan không cảm thấy gì “
Lạy Chúa, Chúa biết ông ấy mù và mọi người ở bệnh viện này cũng biết ông ấy mù. Vậy mà sao con lại cảm thấy lòng ông ấy, tâm trí ông ấy sốt sắng, yêu mến Chúa nóng bỏng, ngập tràn trong từng lời kinh, trong cử chỉ cung kính và nhất là động lực khiến ông ấy ngày ngày lần mò tới nhà thờ trong các giờ kinh phụng vụ và các Thánh lễ.
Ông ấy nói : chính Chúa là động lực và là nguồn ánh sáng chói lọi dắt ông ấy đi mấy chục năm nay nên ông ấy chưa hề bị vấp ngã. tuy đôi mắt ông ấy mù loà nhưng ông ấy cảm thấy Chúa luôn hiện hữu trong ông ấy, Chúa hiền hậu và trìu mến nhìn ông ấy. Chính Chúa là đôi bàn chân, đôi bàn tay, là đôi mắt, là con tim ông ấy. Chúa cứ mời gọi và ông ấy cứ đến cùng Chúa.
Tuy bị bệnh tật hành hạ trong đau đớn nhưng ông vẫn tin tưởng và xác tín vào Chúa, Chúa sẽ ban cho ông khỏi sự chết muôn đời và ông ấy sẽ lại trở về Thiên đàng với một hình hài đầy đủ và đẹp đẽ. Chúa là sức mạnh để ông ấy tiếp tục sống.
Ông Bớp khao khát được rước Thánh Thể mỗi ngày để từ đó thể xác và linh hồn ông được bổ dưỡng và lớn mạnh trong Chúa. Ông khao khát được chiếm hữu Chúa trọn vẹn. Ông ấy muốn Chúa ở cùng ông ấy mọi nơi, mọi lúc ngay cả trên giường bệnh, Chúa là cây lạng đưa ông ấy về Nước Trời. Ông ấy tự hào vì chính bản thân đang chịu đau khổ cùng Chúa trên cây Thánh giá. Bị bệnh phong cùi đã bao nhiêu năm nay, niềm vui rất ít nhưng đắng cay và nước mắt thì chan chứa ấy vậy mà niềm tin tưởng cậy trông vào Chúa thì chưa bao giờ vơi bớt. ông ấy thường khấn rằng:
“Lạy Chúa, con xin phó thác mọi sự trong tay Chúa”
Ông ấy nói trong tiếng khóc, ông ấy khóc vì đời ông đau khổ và đau đớn, điều này tránh làm sao được vì bệnh tật, vì đôi mắt mù loà, thân hình tàn phế, lở loét. Ban ngày hay đêm tối ông ấy làm sao mà biết được nhưng mọi lúc và mọi nơi con luôn nhìn thấy ông ấy đọc kinh và lần hạt để cầu nguyện cho tất cả mọi người.
Khi suy niệm về cuộc đời và nhất là cuộc sống của những người phong đau khổ cách riêng là những người Kitô hữu là người phong con mới thấm thía một điều rằng: cuộc sống vốn không phẳng lặng và chưa bao giờ là bình an cả. Nó bấp bênh và chứa đựng những nỗi niềm riêng tư. Khi chúng con vui cười hạnh phúc vì có nhiều người yêu mến hay có nhiều tiền thì bên cạnh chúng con lại có rất nhiều người đang phải đau khổ, quằn quại vì bệnh tật hành hạ. Trong khi chúng con đang vùi mình vào những cám dỗ của thế gian như tiến tài, địa vị, danh vọng thì chúng con đã quên mất Chúa, chúng con bắt tay với ma quỷ và có lẽ đôi lúc chúng con cũng trở thành ma quỷ. Đôi mắt tâm hồn chúng con lúc đó đã mù, mù thật rồi Chúa ơi !
Chúng con vì buôn ba mà quên đi mất rằng mình là một Kitô hữu, chính mình có bổn phận và trách nhiệm sống lời Chúa. không nhà thờ, không cầu nguyện, chẳng Thánh lễ hay làm việc bác ái- chúng con đã mù, mù mất đôi mắt đức tin rồi Chúa ơi!
Con thấy cuộc sống như gió thoảng mây bay, ngày nay là hạnh phúc, ngày mai là đau khổ nhưng cuộc đời là một quy luật. Con người không phải sinh ra để tuân theo quy luật sao ? Ấy vậy mà trong niềm tin có Chúa, chẳng có quy luật nào cao trọng và vô cùng như quy luật tình yêu.
Lạy Chúa !
Có ở trong những giây phút thinh lặng để suy niệm, chúng con mới biết lời Chúa, việc cầu nguyện, tham dự Thánh lễ, rước Thánh Thể và việc bác ái quan trọng là dường nào. Họ mù nhưng tâm hồn họ trong sáng, họ khao khát có Chúa, đón nhận Chúa trong từng phút giây. Vậy mà chúng con- những người mắt sáng, chân tay lành lặn mà đôi mắt đức tin lại mù loà đến vậy ? Trong Thánh vịnh có câu:
“ Lời Chúa là đèn soi cho con bước, là ánh sáng chỉ đường cho con đi”
Chiều nay, mà không phải, chỉ sau khi kết thúc Thánh Lễ chiều thứ 7 ngày hôm nay, là trời sẽ sập tối, một bóng đen dày đặc bao phủ khắp mặt đất. Cái bóng tối tự nhiên ấy sẽ làm cho chúng con không còn nhìn thấy cái gì nữa cả nếu không có đèn điện hoặc một ngọn đuốc sáng soi đường. Nhưng nếu trong tay chúng con không có những dụng cụ mang ánh sáng ấy thì sao nhỉ? Rắn rết, hố sâu, đường gồ ghề đang chờ đợi chúng con ? Chúng con sợ lắm Chúa ơi!
Xin hãy thắp lại ngọn lửa yêu mến Chúa trong lòng chúng con nếu ngọn lòng chúng con khô khan, nguội lạnh hoặc khi ngọn lửa yêu mến Chúa còn leo lét cháy thì Chúa ơi, xin hãy khêu lên cho nó bừng bừng cháy Chúa nhé! Và qua đó xin cho chúng con hiểu rằng:
“ Không phải mọi sự thiếu hụt, đau khổ về thể xác và tinh thần ở trên đời này đều là hình phạt khắc nghiệt mà nó là những dấu chỉ yêu thương Chúa muốn dành cho người Chúa hằng yêu mến “

Têrêsa Bùi Hiếu Ngọc
nunngoc2008@yahoo.com

GIÊSU- NGƯỜI BẠN CỦA TÌNH YÊU

Những lúc buồn, tôi không biết tâm sự cùng với ai cả ngoại trừ Chúa của tôi. Trong những lúc khó khăn của cuộc sống, trong những lúc lòng tôi thấy trống vắng và sao động thì Ngài luôn ở bên tôi. Thực sự lúc đó tôi chẳng biết làm gì ngoại trừ việc than thở: “ Trời ơi! Tôi mệt quá! “. Tôi cảm thấy chán nản và bi quan khủng khiếp. Kể từ lúc biết đọc, biết viết, biết suy nghĩ đến giờ, tôi đã không ít lần rơi vào những khủng hoảng đó. Thật là khó để có thể diễn tả nó hình thù và tính chất như thế nào bởi mỗi lần là một lỗi lầm, một vấp phạm khác nhau. Đôi khi tôi cũng nghĩ tránh làm sao khỏi những sự ấy vì một lẽ đơn giản tôi vốn mang bản chất con người mỏng dòn, yếu đuối và dễ sa ngã. Thú thật rằng tôi đã phải đấu tranh với chính bản thân tôi rất nhiều để có thể chiến thắng nỗi ám ảnh đó bằng cách này hay cách khác. Sau cùng tôi đã nhận ra một người bạn tâm tình, thân thiết đến gần gũi là Chúa Giêsu Kitô- Chúa chúng ta. Gần Ngài tôi cảm thấy tâm hồn mình đuợc bình an và hạnh phúc, sốt sắng và yêu mến đến lạ lùng. Những lúc buồn vui trong cuộc sống, tôi luôn tìm đến với Ngài để tâm sự, sẻ chia và lắng nghe lời Ngài nơi tôi. Tôi biết không phải ai cũng có được cái ơn nghe thấy tiếng Ngài nói trong tâm hồn mỗi chúng ta đâu nhưng cũng không phải là Ngài chưa bao giờ tâm sự với chúng ta cả bởi vì lòng chúng ta nguội lạnh, trai đá, rửng rưng và có quá nhiều toan tính. Ngài luôn yêu mến, gần gũi và đồng hành cùng chúng ta mà chúng ta chẳng hay biết mà chúng ta lại xa lánh, chối bỏ Ngài. chúng ta cứ trong chờ Chúa ban ơn cho chúng ta, cứu độ chúng ta mà chúng ta lại chưa bao giờ cộng tác với Ngài, nghe lời Ngài thì thử hỏi làm sao chúng ta có thể nên thánh được?
Ví như một người bị rơi xuống suối, mong chờ Chúa đến cứu mình nhưng khi cây gỗ trôi cạnh anh ta, anh ta không mảy may bám vào, sợi dây thừng vắt ngang qua suối anh ta không cần cầm lấy để rồi ngậm ngùi chết đuối trong khi Chúa lại dùng chính những khí cụ ấy để giúp anh.
Con người là thế đấy, chỉ thích ăn sẵn mà không muốn bỏ chút công sức nào của mình ra dù là nhỏ bé. Sống kiểu đó có lẽ muôn đời cũng sẽ chỉ chết trong bi quan và trầm luân nơi cõi chết mà thôi !!!
Lạy Chúa kính yêu !
Phải khẳng định một điều rằng: chỉ sống trong tình yêu đích thực con người mới cảm nhận thấy Chúa, thấy ơn lành Chúa ban. thực tại xã hội ngày nay, tình yêu có rất nhiều, rất đa dạng và phong phú nhưng dường như những thứ tình cảm đó được đổi trác, mua bán bằng những đồng tiền, những đồng đô la bất chính. Dường như khi cần tình cảm, họ chỉ cần bỏ tiền ra mua, thật quá dễ dàng!
Con không biết đó có phải là thứ tình yêu mà Chúa ban, Chúa muốn nơi chúng con hay không nữa? Hay đó chẳng qua là thứ tình yêu mơ hồ, nhạt nhẽo, lợi dụng? Chẳng thế mà, dân Chúa thời xưa vì lòng ghen tuông, đố kị mà đóng đinh Chúa trên thập giá khiến Chúa phải đau đớn, gồng mình lên mà cay đắng, xót xa, bi quan và đau khổ.
Còn dân Chúa ngày nay thì sao? Họ không cần cầm búa đóng đinh Chúa trực tiếp vào thập giá như trên đồi Gôn-Gô-Tha ngày xưa nữa, nhưng bằng cách nào đó nhân loại ngày nay cũng đang đóng đinh Chúa vào thập giá không phải một lần, hai lần mà nhiều nhiều lần nữa.
Lạy Chúa, mỗi lần nhìn lên cây thánh giá con thấy con xấu hổ quá vì con là một trong cả biển người tội lỗi đang đóng đinh Chúa vào thập giá. Con xin lỗi Chúa và xin Chúa thứ tha.
Lạy Chúa, nhưng cũng chính nhờ tình yêu vô biên ấy của Chúa mà chúng con được tha tội. Con thấy tự hào vì thánh giá Chúa là biểu tượng của một tình yêu bất diệt.
Giêsu- người bạn của tình yêu. con tự hào khi là con Chúa bởi chúng con tin rằng trong Chúa, tâm hồn chúng con luôn được bình an và yên hàn.
Têrêsa Bùi Hiếu Ngọc
nunngoc2008@yahoo.com

Saturday, June 5, 2010

THƯ GỬI HIẾU



Chào Cha Thiên,
Con là Hiếu, học cùng lớp giáo lý dự tòng với chị Nhung và đã được chị Nhung giới thiệu gặp Cha một lần. Được gặp Cha con rất vui và thấy rất thoải mái. Từ đó con có thiện cảm rất nhiều với Thiên Chúa giáo.
Giờ đây con chỉ còn một số băn khoăn mà con rất muốn Cha trả lời rõ ràng cho con. Bởi vì nếu không thì con cảm thấy bơ vơ và lạc lõng.
Điều trở ngại duy nhất của con khi đến với Công giáo là tính hình thức. Con bây giờ không bàn đến quan điểm của Nhà Thờ về tính cần thiết của nó. Điều con muốn hỏi Cha, với tư cách là đại diện của Nhà Thờ, là Nhà Thờ, hay Thiên Chúa nghĩ gì về một kẻ như con. Để con hiểu được mình bị bỏ rơi đến mức độ nào.
Con đã mua sách "Giáo lý của hội thánh Công giáo", đã đọc tuyên ngôn "Dominus Jesus". Và con hiểu là bất cứ một người Công giáo nào cũng phải tuyên xưng Đức Tin vào Mẹ Maria Đồng Trinh.
Bởi vì con đến Nhà Thờ trong tinh thần quý trọng tính thành thật của nó. Cho nên cũng vì thành thật, mà con hỏi Cha, là trong khi con còn chưa tin được Đức Maria Đồng Trinh thì chắc chắn con cũng chưa là người Công giáo được. Thế thì, trong khi đó, các lời cầu nguyện của con có được Thiên Chúa lắng nghe không? Trong khi con cố gắng thi hành Lề Luật của Người, làm theo lời Người dạy, "làm theo ý muốn của Cha ở trên trời" ... thì Thiên Chúa có đoái thương đến con không? Con tin Đức Jesus Kito là Thiên Chúa, theo nghĩa "Thiên Chúa là thần khí và là sự thật", "là tình yêu" ... chứ không phải theo lối nghĩ phụ thuộc vào một sự kiện thuần vật chất là do một người nữ đồng trinh sinh ra.
Con không bàn đến khía cạnh Đức Tin ở đây. Con chỉ hỏi là trong khi con còn ngờ ngợ, chưa mạnh dạn tuyên xưng điều đó, thì các đau khổ vẫn ập lên con, và các lời cầu nguyện của con, lối sống cố gắng nương theo Lề Luật của con, vốn là điểm tựa tinh thần duy nhất của con, sẽ được phán định như thế nào ? Nhà Thờ sẽ ruồng bỏ con chăng ? Thiên Chúa sẽ phớt lờ con chăng ? Người có cứu giúp con như đã dùng cánh tay mạnh mẽ mà đưa dân Israel ra khỏi Ai-Cập ?
Con không biết thế nào. Một đằng thì "Ai làm theo ý muốn của Cha Ta trên trời, thì người ấy là em trai, em gái và mẹ của Ta vậy", "giờ những người thờ phượng đích thực sẽ thờ phượng Chúa Cha trong thần khí và sự thật, vì Chúa Cha tìm kiếm những ai thờ phượng Người như thế" (Gioan, 4:23). Một đằng thì "Nếu miệng bạn tuyên xưng Đức Giê-su là Chúa, và lòng bạn tin rằng Thiên Chúa đã làm cho Người sống lại từ cõi chết, thì bạn sẽ được cứu độ" (Rm, 10:9).
Nhà Thờ đối xử như thế nào với một người như con ? Mà quan trọng hơn, Thiên Chúa đối xử như thế nào với một người như con ? Một người vui mừng, hớn hở khi được đọc Lời Chúa nhưng đồng thời cũng ngại ngùng khi tuyên xưng Đức Mẹ Đồng Trinh. Chẳng lẽ không có một thái độ trung gian nào dành cho những ai sẵn sàng tuân thủ lời Jesus phán dạy mà chưa sẵn sàng cho việc tuyên xưng Đức Tin sao.
Mong Cha trả lời rõ ràng cho con.
Chào Cha.





Chào Hiếu nhé!
Trước hết mình và Hiếu cứ xưng hô với nhau là anh em cho nó tự nhiên.
Hiếu thân, anh rất biết tất cả những bức xúc của em khi em đưa ra những vấn nạn, nó được thể hiện ra ngay trong giọng văn của em.
Anh ghi nhận ở em có một tấm lòng thiện chí để tìm ra một chân lí, hay nói khác đi, nơi em đang khát vọng cho một kiếm tìm để sao cho mình có một cuộc sống bình an thật sự trước những vấn nạn thật khó hiểu của cuộc đời này.
Anh mong anh em mình thật bình tâm để chúng ta suy ngẫm.
Chắc em biết, để hỏi anh những câu hỏi trên, em phải mất bao nhiêu là thời gian, mất bao nhiêu là cuốn sách, biết bao nhiêu người để hỏi. Ấy là chưa kể từ khi em có trí khôn, em phải đi học…rồi học đến đại học… vẫn chưa có một lời giải đáp thoả mãn! Như vậy, trong một giới hạn, một trang giấy, một vài bài học, một vài triết thuyết, cả anh em mình không thể giải quyết một sớm một chiều được.
Ta cùng nhau lấy ví dụ này nhé: em định nghĩa cho anh “triết học” là gì? Thôi định nghĩa “tình yêu” là gì vậy? Em có bao giờ nhìn thấy tình yêu không? Em có bao giờ đem lên cân, cân thử tình yêu của ba mẹ em dành cho em nó nặng mấy kí không? Chắc bây giờ Hà nội đang lạnh lắm, Lạng sơn nơi anh đang ở chỉ có 7oC, em có nhìn thấy cái “lạnh” không?
Ở trên thế gian này, vô số cái không nhìn thấy những nó vẫn tồn tại, hiện hữu như nó đã có. Có điều mấy khi ai để ý đâu. Em là người hạnh phúc vì em đã để ý đến những điều chẳng mấy ai quan tâm vì vô vàn những lí do, và có người họ cho là dở hơi khi tìm hiểu.
Chủ nhật tới là lễ Chúa Hiển linh, anh đang dọn bài chia sẻ với mọi người trong Thánh lễ, và bây giờ anh chia sẻ với em như những người khác.
Lễ Hiển linh, nói nôm na là Thiên Chúa tỏ hiện ra với muôn dân, và nói cho họ biết là có Thiên Chúa.
Chúa hiện ra với loài người như một em bé sơ sinh nằm trong hang đá nghèo hèn. Hơn 2000 năm trôi qua, niềm tin ấy vẫn tồn tại. Không biết có triết thuyết nào tồn tại như vậy không? Chẳng lẽ những người đang tin vào “em bé” ấy một cách mê muội?
Ở Lạng sơn ai cũng biết chuyện ông Ký ở Noọc Tồng, sau khi trở lại đạo trong vòng một tháng, nhà ông có ba người chết. Nếu có Chúa thật tại sao Chúa không cứu gia đình nhà ông, nếu hiểu theo Thiên Chúa là người nhân lành, là Thiên Chúa thương xót?
Em đã thăm những người bệnh nhân ở Bệnh viện phong-da liễu Văn môn, chắc em cũng chưa được họ chất vấn em. Nếu có Chúa, có Phật; Chúa Phật là Đấng thương người, từ bi sao lại để chúng tôi thế này, bị gia đình, cha mẹ, anh em thậm chí con cái bỏ rơi, bị cụt chân cụt tay…? Em trả lời họ thế nào?
Vậy Thiên Chúa em đang tìm kiếm có thật hay không? có phải là Ngài bỏ rơi con người không? Có bỏ rơi em không?
Các triết thuyết cũng như vấn nạn của con người: con người là ở đâu mà ra, chết đi về đâu, cuộc sống này có ý nghĩa gì không…?
Em có thấy ở chỗ nào người ta trả lời cho em một cách rõ ràng không? Hay không cẩn thận cứ cãi nhau như kiểu: quả trứng hay con gà, cái nào có trước.
Có nhiều thứ ở trên đời này chỉ có sống và kinh nghiệm mới cảm thấy, chứ không thể chứng minh một cách rõ ràng như toán học hay vật lý…
Triết học mới đặt ra cho ta câu hỏi nhưng chưa có câu trả lời. Còn những điều em đang học hỏi, giáo lý Công giáo, nói một cách khoa học là Thần học, đó là câu trả lời cho triết học.
Thần học không phải là những giáo điều vu vơ, suy nghĩ không có cơ sở, mà là những giáo lý dựa trên nền tảng Kinh thánh.
Cũng có người cho rằng, những nhà thần học là những triết gia nhưng biết cúi mình, quỳ gối thờ lạy Thiên Chúa, và nhất là biết cầu nguyện. Nói khác đi là những triết gia có đức tin.
Như em nói: Điều trở ngại duy nhất của con khi đến với Công giáo là tính hình thức. Vậy quỳ gối, cúi mình, cầu nguyện có phải là hình thức không?
Chúng ta không thể nào nói: tôi tin, tin lắm, nhưng tôi không thể hiện ra bên ngoài thì làm sao chứng minh rằng mình tin được. Đức tin không thể cân đo đong đếm như vật chất. Vậy theo em chúng ta bày tỏ đức tin của mình ra bằng cách nào?
Như anh đã có lần nói với em: rất nhiều người hay nói: đạo nào cũng giống như đạo nào, đạo nào cũng dạy ăn ngay ở lành! Nếu như vậy anh em mình chẳng phải mất thời gian làm gì để tìm hiểu về đạo, rồi tự nhiên lại bị bao nhiêu người khác cho mình là hâm, là “bệnh nhân vui tính”. Ăn ngay ở lành là luân lý, nhưng đạo Công giáo không chỉ có dạy như vậy, mà dạy chúng ta về một Chân lý: điều mà em đang học hỏi về giáo lý, về một Thiên Chúa…( nói tóm tắt: mến Chúa, yêu người , noi gương Chúa Giêsu). Nếu học về luân lý thì chúng ta khi còn nhỏ đã học môn đạo đức rồi; mà chẳng cần phải học, ai ai cũng biết: không giết người, không trộm cắp, …Như vậy, theo em tuyên xưng một niềm tin vào một Thiên Chúa ta phải làm như thế nào? Có cần phải tuyên xưng không, có cần phải đọc kinh không, có cần phải cúi mình, có cần phải dâng lễ… có cần phải giữ những Luật mà Chúa dạy nên làm không? Đức tin căn bản của người tin đó là làm theo ý muốn của Thiên Chúa chứ không phải là làm theo ý của mình!
Kinh thánh, rất nhiều chỗ nói: Chúa dựng nên loài người và Chúa thương yêu hết mọi người, kể cả Giuđa bán Chúa. Nhưng Chúa tôn trọng tự do con người, đó là điều rất quan trọng. Vì thế, chắc chắn Chúa không bao giờ bỏ rơi em, Giáo hội (Nhà thờ) không bao giờ bỏ rơi em. Chỉ có điều tại sao em không hỏi ngược lại: Em có bỏ rơi Chúa, bỏ rơi Giáo hội (Nhà thờ) không? Em có để cho Chúa, để cho Giáo hội lạc lõng bơ vơ không?
Chẳng lẽ chỉ vì như em nói:Một người vui mừng, hớn hở khi được đọc Lời Chúa nhưng đồng thời cũng ngại ngùng khi tuyên xưng Đức Mẹ Đồng Trinh. Mà Chúa lại bỏ em sao được!
Chẳng lẽ Chúa thương ta, yêu ta, chết vì ta mà em vẫn còn nghi ngờ: các lời cầu nguyện của con có được Thiên Chúa lắng nghe không? Trong khi con cố gắng thi hành Lề Luật của Người, làm theo lời Người dạy, "làm theo ý muốn của Cha ở trên trời" ... thì Thiên Chúa có đoái thương đến con không?
Anh đã nói trên đây, Chúa yêu thương tất cả mọi người, không phân biệt một ai. Thiên Chúa dựng nên mặt trời chẳng hạn, có bao giờ Chúa nói chỉ những người theo Chúa mới được hưởng ánh sáng mặt trời đâu, vì thế câu hỏi của em nó thật đáng yêu và nó buồn cười làm sao:
Chẳng lẽ không có một thái độ trung gian nào dành cho những ai sẵn sàng tuân thủ lời Jesus phán dạy mà chưa sẵn sàng cho việc tuyên xưng Đức Tin sao?
Anh lại phải hỏi em: trên thế giới này có bao nhiêu người chưa tuyên xưng tin vào Jesus? Ở Việt nam mới có 10% dân số theo đạo Công giáo. Thế thì những ai không tin, sau khi chết liệu có vào Hoả ngục hết hay sao? Nếu có một Thượng đế như vậy, luôn đe nẹt, luôn trừng phạt thì anh khuyên em chẳng nên theo làm gì (tất nhiên, Thiên Chúa luôn công bằng khi phán xét). Thiên Chúa luôn mời gọi, Ngài không ép buộc, Ngài luôn yêu thương, tôn trọng tự do của con người. Cố thủ tướng Ấn độ IndiGandi (anh không nhớ chính xác tên của ngài) được tôn vinh là thánh, ông là người rất thích Kinh thánh, nhất là quý những Mối Phúc thật. Nếu ai cũng giống như Chúa Giêsu, và thực hiện những giới răn của Người thì ông theo. Tiếc rằng một lần ông vào một nhà thờ dành riêng cho người da trắng và bị đuổi ra. Ông không chấp nhận hoàn cảnh như thế và cũng không chấp nhận đạo Công giáo có những người như vậy.
Còn em, em có chấp nhận không? Em có tin rằng ông cố thủ tướng có được lên thiên đàng hay không?
Vấn đề đức tin của em còn trở ngại duy nhất đó là Đức Mẹ đồng trinh hay không?
Đây là một vấn nạn đã gây ra bao nhiêu những khủng hoảng và chia rẽ cho những người tin Thiên Chúa.
Nhưng quay trở lại một chút về tin vào Chúa Giêsu: anh nhắc lại: nếu em Tin vào Chúa Giêsu thì phải tin rằng Ngài là Thiên Chúa, nhưng Ngài cũng là con người thật, chứ Ngài không chỉ là thuần thiêng liêng, mà là còn là con người có da, có thịt như ta. Do vậy, đừng bao giờ nghĩ Chúa Giêsu theo kiểu “hồn Trương Ba, da Hàng Thịt”.Vì thế, Ngài được sinh ra như bao người khác, chỉ có điều là sự thụ thai không phải bằng sự ăn ở như người ta, mà là nhờ quyền phép của Thánh Thần. Như vậy, việc Đức Mẹ đồng trinh phải hiểu theo nghĩa thiêng liêng chứ đừng hiểu theo nghĩa vật lý, rằng còn trinh hay không còn!
Anh nói lan man quá, mong em đọc từ từ mà suy gẫm.
Anh không hy vọng rằng trả lời em một cách thật rõ ràng như em muốn. Em thông cảm, dầu sao anh cũng còn có những giới hạn. Chỉ có tình yêu Thiên Chúa mới có thể trả lời rốt ráo cho em mà thôi.
Chúc em luôn khám phá ra tình yêu Thiên Chúa nơi những hoàn cảnh thường ngày.
Cám ơn Hiếu nhiều lắm.
Rất mong em gửi tới anh những ưu tư của em.
Phaolô Nguyễn trung Thiên.
Lạng Sơn, 4-1-2008

Wednesday, May 26, 2010

YÊU THƯƠNG VƯỢT QUA BẤT HẠNH

Vui năm nay 28 tuổi.
Vui có thể nói chuyện với bạn bằng tin nhắn. Vui sử dụng vi tính khá thành thạo bằng hai ngón ngón chân cái.
Bố Vui, ông Cừ, nguyên là đại tá, bị nhiễm chất độc da cam.
Mẹ Vui, một người mẹ công giáo, hết lòng yêu thương đã dạy Vui "đọc-viết" khi Vui 11 tuổi.
Bạn muốn nói chuyện với Vui? Xin gửi tin nhắn đến máy 02196552586.
Vui đang mong bạn lắm!

VUI; HAGIANG; DA CAM


VUI; HAGIANG; DA CAM
VUI; HAGIANG; DA CAM
VUI; HAGIANG; DA CAM
VUI; HAGIANG; DA CAM
VUI; HAGIANG; DA CAM
VUI; HAGIANG; DA CAM
VUI; HAGIANG; DA CAM

Tuesday, May 4, 2010

Wednesday, April 21, 2010

SUMMARY ON THE CATHEDRAL OF HANOI




1 . History of the construction.
In 1882, French bishop, His Grace Puginier, (also known as Đức Cha Phước in Vietnamese), started the construction of the "Grand church", which is familiarly called “Nhà Thờ Lớn”. The plans for the church was Gothic style - 64,5 m in length with twelve bays, 20,5 m in width with five arches and two bell-towers of 31,5 m in height.
According to some historical documents, such as “La vie de Mgr. Puginier” (Life of Mgr. Puginier) of Louvet, the historical novel "The Shadows Surface Water of the Lake of the Sword” of Chu Thiên and various parts of files consulted with the Missions Foreign of Paris (Missions Etrangères de Paris, M.E.P); The grounds where “Grand church” and “common house” (Nhà Chung) are, was in the past the Bao Thien Pagoda (Báo Thiên Tự) which was built during the Ly dynasty (1009 to 1225).
Time, bad weather and the wars were various causes for the collapse of the building. The ground remained without a proprietor, was soon claimed by the State. The governor of Hanoi at that time, Mr. Nguyen Huu Do, gave it to Bishop Puginier for construction of the church.
To obtain the financial resources to build "Grand church" (the sum envisaged rose to 200.000 France francs), the bishop requested authorities of Protectorate an authorization of organizeing a tombola intended to collect funds. This permission was refused twice before it was finally allowed. The tombola had two raffles, One in 1883 and the other in 1886. The sums collected from these two lotteries (approximately 30.000 France francs) and the contributions of many others, as well as the efforts by Mgr. Punginer resulted in the “Grand church” of Hanoi being built by Vietnamese artists and craftsmen on a goodwill basis.
2 . Cultural value
The Technique used for the construction of "Grand church" in Hanoi profited from the assets and the spirit of European architecture. It also exploited the tradition of architectural main road. Thus, this building which became familiar with all and harmonized with the whole landscape of Hanoi, is recognized like making part of the invaluable cultural inheritance of the nation. It is today a component of the architectural heritage of the capital,.
In Europe, the churches were build of stone. However, the "Grand church" of Hanoi wass built out of clay bricks and its walls are covered with thick cement. It constitutes truly a work representative of architectural art Gothic. One finds a grand entrance door, two small doors on the side of each turn. The doors, like the whole windows were also constructed with the Gothic style. The images are holy on the colored stained glasses, which light harmoniously the interior of the church with a natural light. The sanctuary is in a traditional Vietnamese manner with woodcarvings red lacquer painted with gold of a grand smoothness and beautiful originality. The church is placed under the patronage of Saint Joseph, who faithful catholics admire. There is a clay statue of the Saint - two meters high, posed on a grand pedestal.
A total of five bells - four small and one grand - cost 20.000 France francs at the time of the construction of the church. The Grand clock, fixed on the principal frontage, announces the hours, the quarters from hour, thanks to a system connecting it to the five bells suspended on the tops of the two bell-towers.
In the center of the ground which extends in front of the "Grand church", is a statue of the cast iron “Regina Pacis”. Around it, is a walk with grand flowered vases. Behind, draws up a cave. However, currently the whole of surroundings where the Cathedral is located is invaded with foreign elements which broke the harmony that this space maintained with the majesty of the building and carry wrong to the solemnity of the unit.
3. Religious value.
Today, the church of Hanoi is the Cathedral of the diocese of Hanoi. It is also the mother church to more than 480 other small churches and grand of the diocese. It’s location in the district Hoàn Kiếm, in the center of the capital of Hanoi (close to the Hoan Kiem lake) is a place particularly convenient for the faithful catholics in the capital, and especially for foreign tourists. Everyday, mass is celebrated to a large congregation. The Archbishop of Hanoi celebrated the Eucharistic at the solemn masses. Today, the Cathedral of Hanoi is the center of the religious activities for 400.000 Catholics of the diocese of Hanoi. With its request and to answer the desires the faithful ones of the capital, Cardinal Paul Joseph Pham Dinh Tung proceeded to dedication of the cathedral, May 1, 1999. We hope that the "Grand church" of Hanoi will be Basilica in the future.

Translated from Vietnamese by P.Thien.

Wednesday, March 24, 2010

AFTER MORE THAN 50 YEARS, THE FAMILY PHOTO IS FINALLY TAKEN


In summer 2005, we the seminarians, of St. Joseph Seminary in Hanoi, were sent to Van Mon Leprosy Hospital (Thai Binh province). This hospital is also called Van Mon village. Currently it has more than 500 lepers. We lived together with the lepers. They taught us lesson of love, their thirst for living, and many lessons about suffering. We felt and touched their suffering body and spirit. We cannot forget this time – the time of love.

We lived in Van Mon village for a month. We helped the children to review their lessons, taught music, played with them... Most of the time we spent talking with them, and listening to them about their lifes. The Lepers gave us rice, vegetable, fish, snail, etc.

One day, I visited Mr. Phung. He was a 75 years old leper. He had no feet. He went into Van Mon village about 52 years ago. He comes from Dich Vong village in Hanoi city. He has knowledge of the World and Vietnamese culture. I was very surprised to hear him say: “We are lepers. We have lost a leg or a hand but we are not headless!”

He told me about himself: “My parents had three sons. I am the oldest. My brothers are Mr. Hung and Mr. Du. In 1954, I was infected with leprosy after getting married for one year. I went into Van Mon in that same year. Four months later, my wife divorced me immediately after we had a daughter. My daughter is Thuan. I have never seen Thuan since she was born. I hope that she loves me so much.”

I asked him:
“Is there anyone who visits you?”
“Yes, annually my brothers visit me, and give me money but my daughter has never visited me before!”

“What are your dreams?”
“My dream is to return to my motherland to see the village temple before dying. And I wish to see my daughter and my grandsons”

After my stay at Van Mon village ended, I visited Mr. Phung’s brothers, Mr. Hung and Du. I also visited his daughter, Ms. Thuan.

I knew the situation of his family. The distance from Hanoi to Thai Binh is 120 km. Thus, Mr. Phung cannot return to his village and this is also the reason why Ms. Thuan never visited her father.

Were they afraid of leprosy? No, they were not!

Instead, they were afraid that he would claim his piece of land when he returned. Before she got married, Ms. Thuan said that her father was dead.

I could do nothing more other than to pray for Mr. Phung.

On May 19, 2007, I went to Van Mon village to celebrate Ms. Ngoc’s Baptism Mass. On this occasion, Mr. Du and his family went with me to visit his older brother, Mr. Phung. After mass, Mr. Du called and asked me: “Do you allow Mr. Phung to return into Hanoi with you?”

I was filled with happiness and thanked God. Finally, after two years of prayers, Mr. Phung’s wish, and my wish will be turned to reality.. Mr. Du told me that when they saw Mr. Phung, his wife was filled with compassion and decided to take him home immediately.

The man can resign to face difficulties but love and prayers never!

Thanks with my gratitude for my teacher Clare who edited this story.
Paul Nguyen Trung Thien.

Monday, March 8, 2010

Mary Ho Thi Chau

Mary Ho Thi Chau was 22 years old. She was born in 1975. Her weight with crutches was 28 kg. She was a leper with half a right leg and no left leg which she lost it three years ago. Her hands were without five fingers and the other hand with five fingers but had never healed. She practiced using the sewing-machine seven months ago. She was able to tailor a costume for leprosy of Raglai ethnic minority of Ham Tan district and children of Ben San leprosy village. Below is an interview by priest Cosma Hoang Van Dat, SJ., and replies from Mary Chau(on 15 Oct. 1997).
1. Where were you born?
Father, I was born in Nghe An province. My village is far from city - more than one hundred km. My family is very poor. My parents are farmers. We always lacked rice for eating. We had to add cereals. We had to hard work but it was still not enough for eating.
2. When were you infected with leprosy?
Father, I was eleven years old. I then went into The leprosy hospital of Quynh Lap (Quynh Luu district, Nghe An province, North Vietnam).
3. ...with your oldest sister?
No! My sister Hong was infected with leprosy after me. She was afraid of leprosy. My sister didn’t like me coming home every year to visit my parents during Tet. She would immediately ask me leave the house. I was sad and cried much...
4. ...and then?
Three years later , she was inflected with leprosy and came into the leprosy hospital with me.
5. How have both of you been in the leprosy village of Ben San (Tan Uyen district, Binh Duong province, South Vietnam), so far?
Father, the initial time was extremely hard. At the Quynh Lap leprosy hospital, we were often hungry, and even there was no manioc bulb for eating., Hence, I decided to go to the South (Vietnam) hoping it’ll be easier to live in.
6. ... by airplane (!) ?
(Smile) I went to the South by train. I did not have any cent, and I had to beg on the train. I was 15 years old! After coming to Saigon (HCMC). I was a beggar for a few months along the streets. Then the police caught me and put me into the Ben San leprosy village.
7. What about your sister Hong?
About one year later, I escaped the Ben San village to return to Quynh Lap hospital and told my sister: “You have to follow me to go to the South at once!” The both of us begged on the train. Finally, we arrived at Ben San village. I was not disciplined by the authorities as I was still under 16 . The nuns from Sister of Charity of St. Vicente loved and protected me too.
8. Did you remember your parents?
Yes, I did! During the initial time in this village I missed them very much. Because of our leprosy, we did not visit them. Moreover our parents were poor, and they worked harder than us too.
9. Did you sometimes receive letters from you parents?
Yes, two times, I did. The first, mom told me that my father died four months ago. The second letter, mom informed me she married again but I did not know him.
10. Did you return to your home to see your mother ?
Yes, I did! I hoped to see her but I had no money. And ... till today, I do not have enough .... (Smile). my mom followed my stepfather and I do not know where they are!
11. Have you gone to school?
Yes, I have! I began to go to school when I was 7 years old. I had to stop learning when I was 9. I had to help grazing the buffalos, carrying grass, cooking... I am able to read the newspaper but slow. I can write but very bad, and ...incorrect too.
12. Is hard to use sewing-machine for you?
Yes, Father, it is very hard but I try to use it often. . Others learn to use the sewing-machine in one year. For me, I had to spend 2 years, even 3 years! Everyday, I keep saying my prayers hoping that God will help me!
13. Oh! Why did you become Catholic?
At the Ben San leprosy village, there were many people who are Catholics. My sister Hong is a Catholic. I felt that Sister loved me and this is the reason why I became a Catholic. Later, when I was studying catechism I learnt that God loves all lepers the same me.
14. Everybody said: you walk fast and smile always!
Someone who is healthy can walk in one step. I have to walk two steps as I am weak. I do not like someone to wait for me. I always smile because I know that many people love me. And others who see me happy will not feel sad. .

When we read this story, Mary Ho Thi Chau rested in peace in God’s hands a long time ago. All of us ask ourselves:
Did our parents love us?
Have we hands and feet ?
Have we ever been hungry?
Have we ever begged along the streets or on a train?
Have we ever got a disease?
Have we ever been despised by someone?
Have we gone to school?
....
Let us to say:
“Give thanks to the LORD,
who is good,
whose love endures forever.”
(Psalms 118.1)
Translated by Phaolo Nguyen Trung Thien
Corrected by Teacher Claret

Saturday, February 27, 2010

HÃY MỞ RỘNG TÂM HỒN VÀ YÊU THƯƠNG

HÃY MỞ RỘNG TÂM HỒN VÀ YÊU THƯƠNG
Đôi lúc trong tâm hồn mỗi chúng ta có 1 góc cô đơn, chính chúng ta cũng không biết lí do vì sao lại cô đơn như vậy? Có lẽ là do bạn bị người khác bỏ rơi, không được quan tâm, không được yêu thương hay tâm hồn bạn là một tảng đá lạnh đã đóng băng cứng nhắc? Bạn không muốn mở rộng tâm hồn/ Bạn bị cuộc sống vật chất, công danh, tiền bạc hay dòng đời lôi cuốn khiến bạn quên đi mình phải sống như thế nào? Lương tâm bạn bị bỏ quên vào một cõi nào đó trong tâm hồn rồi khoá chặt lại? Bạn không muốn yêu thương hay không muốn được yêu thương?
Bạn thân mến !
Cuộc sống luôn vận động không ngừng và mỗi chúng ta phải quay như chong chóng để rồi thích nghi với sự thay đổi đó. Cuộc sống và công việc rồi cũng có hồi kết, đích điểm để dừng lại nhưng có một thứ không bao giờ có điểm dừng. Một khi bạn bước vào con đường đó bạn sẽ nhận ra rằng: càng đi càng thấy mình thiếu thốn, càng đi càng thấy mình bé nhỏ.
Đó chính là con đường tình yêu đấy các bạn ạ!
Bạn yêu quý !
Nếu bạn bước vào con đường tình yêu, bạn sẽ không bao giờ thấy cô đơn và đau khổ cả vì trong yêu thương không bao giờ có đau khổ. Giống như mảnh đất khô cằn gặp dòng suối mát chảy qua. Đầu tiên nước ngấm vào một mảnh đất nhỏ rồi lan ra, lan ra ngấm hết mảnh đất khô ấy. Bạn nghĩ xem nếu mảnh đất khô cằn thì làm gì có cây mọc nhưng nếu có nước rồi, đất ẩm rồi thì cỏ cây, muôn vật sẽ sinh sôi nảy nở. Vui vẻ làm sao !

Chính vì thế, tôi mới nói nếu không mở lòng mình thì làm sao biết mọi người đang quan tâm, yêu thương tới mình như chú chim nhỏ nếu không rời khỏi tổ thì làm sao biết ngoài kia bầu trời xanh rộng lớn, tiếng đồng loại ríu rít và những cánh đồng hứa hẹn sự sống xanh tươi, triển nở
Vâng, đó cũng chính là cảnh ngộ của 2 em An và Khánh mà kì trước tôi đã kể cho. các bạn nghe trên trang Blog của tôi đó

An và Khánh bây giờ rất khoẻ mạnh, rất hoạt bát và vui tươi lắm không giống như ngày 2 em mới được đưa về Văn Môn: sợ sệt, bệnh tật hành hạ....
Thiết nghĩ nếu không được mọi người phát hiện, giúp đỡ và chăm sóc thì có lẽ An và Khánh bây giờ không biết sẽ ra sao nữa?
Dẫu biết rằng căn bệnh Ichion (bệnh vảy cá) vẫn hoành hành trên cơ thể 2 em, rồi em Khánh dù chỉ còn một mắt hạn chế tầm nhìn rất nhiều nhưng bằng sự yêu thương giúp đỡ về vật chất cũng như tinh thần của cha Jos. Mai Trần Huynh ,BGĐ bệnh viện, các y bác sĩ, 2 sơ Mân Côi và những người bệnh nhân xung quanh.
Sáng sáng, chiều chiều An và Khánh lại đạp xe xuống nhà thầy giáo Hiền để học chữ. An lai Khánh, Khánh đèo An đi thoăn thoắt trên con đường đá quen thuộc, có lúc đi làm qua nhà An và Khánh, chúng lại đòi tôi đua xe đạp cùng với chúng đấy! Với dáng người nhỏ nhắn trên chiếc xe đạp cũng nhỏ bé. Khánh lao vun vút trên đường đá và cười khoái trí. An và Khánh thật khoẻ mạnh đúng không các bạn?
An và Khánh có nụ cười rất xinh đặc biệt là An có chiếc răng khểnh duyên lắm! Nụ cười của 2 em giống như nụ cười của những thiên thần ấy - Những thiên thần của sự mạnh dạn, dũng cảm và vui tươi.
Hằng ngày, An và Khánh được 2 nữ tu Dòng Mân Côi cho ăn uống, tắm rửa, chăm sóc rất chu đáo. Những khi 2 sơ không có nhà thì bà Chu, bà Loan, ông Nhị - là những bệnh nhân sống gần nhà An và Khánh giúp đỡ 2 em trong mọi việc.
Mùa đông này, làn da của An và Khánh cũng bị nứt nẻ vì thời tiết hanh khô và cũng vì bệnh Ichion thường phát triển nhiều về mùa đông và giảm nhẹ vào mùa hè. Lắm lúc An và Khánh đau đớn vì làn da thô ráp, xù xì bị nứt nẻ, chảy máu. Đầu gối sưng lên, tay vừa buốt vừa rát. Có lúc em Khánh phải bò lê bò toài ra đất vì chân tay sưng tấy không sao mà đi được. Nhưng tuy có phải ngồi trong nhà trong thời gian đau chân thì tôi vẫn thấy nụ cười vẫn luôn hé nở trên khuôn mặt hai thiên thần đặc biệt ấy. Chúng vẫn gọi tên tôi, cười với tôi mỗi lần tôi qua nhà 2 em.

An và Khánh rất thích đua xe vì 2 em tự cho mình là một tay lái lụa .Chúng chạy xe rất nhanh, rất khoẻ y như một tay lái thực thụ và chuyên nghiệp vậy. Tôi thầm cảm ơn Ông Trời vì Người đã luôn thương xót 2 thiên thần bé nhỏ và đặc biệt ấy.
An và Khánh vẫn đi học đều đều, vẫn đi xe đạp xung quanh bệnh viện để thăm các cụ bệnh nhân, rồi có lúc Khánh còn dùng xe đạp của chính em để mang chăn bông và quần áo cho các cụ bệnh nhân lên khu Trung tâm kĩ thuật khi họ nhập viện điều trị và trở chăn màn cho họ về nhà khi họ được xuất viện. Điều đó làm An và Khánh lấy làm thích thú lắm.

Tôi lại thấy đó là những việc làm rất tốt, rất ý nghĩa, rất ngây thơ, hồn nhiên, trong sáng của 2 em nhưng cũng là một bài học cho tôi trong việc phục vụ những người bệnh nhân phong nơi đây.
An và Khánh rất thích được mọi người yêu thương nên hễ cứ có đoàn từ thiện nào hay một người nào đó khi đến thăm chúng là chúng lại muốn họ bế chúng, vuốt ve chúng. Nhiều lần tôi thấy An và Khánh đang nhong nhong trên lưng các anh chị sinh viên tình nguyện hay chúng được kẹp ba trên chiếc xe đạp của các anh chị ấy! An và Khánh lấy làm vui thích lắm nên chúng hò hét, cười ròn rã,
sảng khoái lắm!
Một lần nghe bé An chia sẻ: sau nầy khi lớn lên An sẽ làm một bà Sơ giống như Sơ Hoà đi chăm sóc các bệnh nhân phong ở Văn Môn, Ước mơ thật lớn lao và quá khó để có thể thực hiện được ở An đúng không các bạn? Nhưng không sao, theo tôi, chỉ cần có ước mơ là khả năng ước mơ đó trở thành hiện thực là rất lớn đúng không ạ? Vì muốn là đã được một nửa rồi đấy! Vậy các bạn cũng hãy ước mơ như bé An nhé !
Cuộc sống là những hằng số bất định nên có những sự kiện, những tình huống xảy ra mà có lẽ có nghĩ chúng ta cũng không bao giờ nghĩ tới. Hoàn cảnh của An, Khánh đấy? nếu ai cũng bỏ chúng như mẹ chúng để đi thì có lẽ bây giờ không biết chúng sẽ ra sao? Nhưng nếu không có những tấm lòng nhân hậu của các ân nhân, những nhà hảo tâm thì liệu An và Khánh có được khoẻ mạnh như thế này không nữa?
Cuộc sống vốn khó hiểu và không ngờ phải không các bạn?
Trong tâm tình chào đón năm mới 2010 sắp tới, tôi hi vọng mỗi người chúng ta hãy xem lại tâm hồn mình. Hãy phá tan những tảng băng cứng nhắc trong tâm hồn để dòng suối yêu thương lại ồ ạt tuôn chảy. nếu nó đã trở nên cũ nát thì hãy đổi mới nó nên tốt lành và yêu thương hơn nhé vì năm mới đang tới rồi!
Xin các bạn cùng tôi hợp ý cầu chúc cho 2 bé An và Khánh mỗi ngày một khoẻ mạnh, vui tươi hơn nữa. Và cùng cầu nguyện cho tất cả mọi người đặc biệt là những người đã, đang và sẽ giúp đỡ cho 2 em nói riêng và cho tất cả chúng ta nói chung một năm mới an khang, bình an, yêu thương và tràn đầy niềm vui nhé!
Xin cảm ơn tất cả các bạn!
Bùi Hiếu Ngọc

GỬI NHỮNG TÂM HỒN ĐAU KHỔ

GỬI NHỮNG TÂM HỒN ĐAU KHỔ

Các bạn thân mến !
Có một câu chuyện kể rằng có một anh bạn trẻ đến than thở với Thượng Đế rằng :
- Lạy Ngài xin cho tôi được sớm chết đi vì cuộc sống của tôi có quá nhiều đau khổ. Tôi bị mọi người khinh rẻ, nhục mạ, xa lánh vì họ cho tôi là con bệnh dễ lây, là một cái gai trong con mắt xã hội, họ muốn loại bỏ tôi vì tôi không có gì để mà họ vui lòng
Thượng Đế nhìn anh ta với con mắt đầy cảm thông và chia sẻ
- Con ta, còn điều gì trong lòng làm con khó chịu, con hãy cứ nói ra cho nhẹ lòng ?
Anh bạn trẻ mặt mũi ỉu xìu nhìn Thượng Đế mà thưa rằng:
- Muôn tâu Thượng Đế, cuộc đời con kể ra thì rất dài mà có nằm mơ chắc Ngài cũng chẳng bao giờ nghĩ cuộc sống tồi tệ đến như vậy
Thượng Đế nhìn anh bạn trẻ
- Vậy sao ? Con kể ta nghe đi để xem cuộc sống con khổ đến dường nào ?
- Muôn tâu Ngài, con đã không may mắn ngay từ khi mới lọt lòng mẹ. Sau khi con vừa chào đời thì mẹ con qua đời, bố con phải một mình nuôi con khôn lớn. Vì sợ con thiếu đi bàn tay chăm sóc của người mẹ nên khi con lên 7 tuổi thì bố con lấy vợ Hai, con cứ tưởng có Dì Thêm là sung sướng hạnh phúc vì bố con sẽ bớt đi gánh nặng gia đình, nào ngờ Dì ấy không những không chu toàn bổn phận của người vợ mà Dì Thêm con ra sức ăn chơi, phố xá, cờ bạc….. bỏ mặc chồng con ở nhà làm lụng vất vả. Tuổi thơ của con cũng gắn liền với những trận đòn khiếp sợ của dì Thêm khiến con như kẻ mất hồn, còm nhom, bệnh tật bố con thương con nhưng cũng không làm gì được vì sợ vợ.
Nhiều năm sống như vậy khiến con như kẻ vô hồn, con mặc kệ mọi thứ, con chán học vì thực ra học buổi có buổi không khiến con mấy năm liền đươc giữ lại làm lớp trưởng Khung, chán học, sợ hãi con đâm ra bụi đời nghiện ngập, hút hít. Lúc đầu thấy có mấy nhỏ bạn thấy con đau đớn, quằn quoại vì những trận đòn của bà dì ghẻ nên chúng nó cho hút thuốc lá để quên đi cơn đau nhưng ít lâu sau con thấy người bứt dứt, khó chịu, con vật vã, đau đớn, con cào cấu hành hạ bản thân cho đỡ khó chịu nhưng lần một thì nhẹ nhàng còn những lần kế tiếp thì khó chịu hơn, bọn nhỏ bạn cho biết là con đã được hút Ma Túy. Đã nghiện rồi là rất khó bỏ, con đã không ngừng bán trộm đồ đạc trong nhà để lấy tiền hút thuốc. Mãi sau này, con đã được bố con phát hiện và cho vào trại cải tạo để cho con làm lại cuộc đời. 13 tuổi con được đưa vào trại cải tạo, sau vài năm ăn năn con đã trở về nhưng khi trở về bố con không còn nữa, dì Thêm đã bỏ đi, nhà cửa chẳng còn gì, con đâm ra không cửa, không nhà, lang thang bờ bụi, làm thuê kiếm sống. Con không dám về làng vì con mắt nhìn soi mói của bà con hàng xóm vì họ cho rằng con là một đứa con khốn nạn, xấu xa và bệnh hoạn. Những đứa trẻ ngày nào chơi với con giờ nhìn thấy con nó chêu chọc con là Thằng Tù
Con mệt mỏi quá Thượng Đế ạ, đầu óc con đau đớn, cùng quẫn, lo lắng xen lẫn với tủi nhục, con không hiểu vì sao nhiều người quanh con có cuộc sống an nhàn, thanh bình là vậy, thế mà cái thân con lại khốn nạn thế này
Chàng trai trẻ thổn thức, anh khóc vì thương cho số phận mình. Nghe anh kể chuyện, Thượng Đế nhân hậu nhìn anh
- Con yêu của Ta phải chăng đó chính là nguyên nhân con muốn chết
- Thưa, vâng vì con thấy con không có giá trị gì trong mắt mọi người, con không muốn gặp ai cũng như không muốn thổ lộ tâm tình cùng với ai cả vì con sợ họ lại xa lánh con, hắt hủi con. Lắm lúc con thấy mình nên chết sớm vì chết còn sướng hơn là sống trong đau khổ, dằn vặt, thực sự con không thể chịu đựng nổi, Thượng Đế ạ !
Thượng Đế nhìn anh mà rằng :
- Nếu con muốn chết đến như vậy thì con hãy trả lời Ta một số câu hỏi trước khi chết nha. Ta muốn xem thực sự con có cần phải chết hay không nha
1. Con có con yêu mến cuộc sống này nữa không ? – Thưa : có
2. Con có cần có ai đó yêu thương con không ? – Thưa : có
3. Con muốn chết vậy thì con đã đáp trả được công cha mẹ nuôi con lên người chưa ? - Thưa : chưa ạ
4. Cha mẹ nào khi sinh ra con cũng mong muốn con cái mình thành người ngoan hiền, có đạo đức và có ích cho xã hội chứ đâu muốn con mình tìm đến cái chết vì sự yếu đuối và ích kỉ của bản thân con chứ!
5. Tại sao khi đau khổ con không tìm ai đó để chia sẻ nỗi buồn? Tại sao con lại khép mình, con sợ mọi người khinh chê con sao? Ta nói để con biết không phải ai cũng xấu như con nghĩ đâu, có rất nhiều người xung quanh con đang mở rộng vòng tay nhân ái, sẵn sàng giúp đỡ con trong những lúc con xa ngã
6. Tại sao khi con lâm cảnh ngặt nghèo, con không ăn năn làm lại cuộc đời mà lại muốn chết, cái chết chưa phải là hết đâu con trai ạ. Ở đời sống sao cho mọi người tôn trọng, yêu thương, giúp đỡ mới là tốt. Ta biết con nhận ra rằng mọi người làng con có thành ý với con khi gọi con là Thằng Tù nhưng có sao đâu khi con lấy công chuộc tội. Ở đời này tình thương là một thứ vô giá, khi con yêu thương kẻ khác như chính mình con, khi con thấy rằng cuộc sống của con có ích thế nào với những kẻ cơ nhỡ bần cùng thì con sẽ thấy được rằng : cuộc đời tươi đẹp biết bao. Con còn trẻ, con đừng bao giờ vì những lúc yếu lòng mà coi thường mạng sống của mình vì thân con không tự dưng mà có, linh hồn con không phải tự nhiên mà thành. Con phải biết quí trọng những gì thuộc về con, con hiểu không ?
Các bạn thân mến, không ai trong chúng ta là chưa bao giờ vấp phạm hay sai lầm để rồi dẫn đến những đau khổ không đáng có. Có thể ở một cái nhìn nào đó bạn cho rằng: cuộc đời là vô nghĩa nhưng đó chỉ là ý nghĩ không tốt về cuôc đời thôi, đời cho ta một lẽ sống và nhiều tia hi vọng dù mong manh nhưng chính nó sẽ giúp mỗi người chúng ta bước qua cuộc đời này một cách chọn vẹn nhất, hoàn hảo nhất theo ý của mỗi người. Cuộc đời cho ta nhiều thứ nhưng không phải là cuộc đời toàn màu hồng mà đôi lúc nó đem lại cho chúng ta những niềm đau thương khôn tả nhưng theo tôi dù cho chúng ta có không muốn thì những sự ấy vẫn xảy đến với chúng ta, đó là quy luật của cuộc sống mà. Tôi nghĩ đau khổ cũng chỉ là thoáng qua trong lúc ta yếu đuối, thất vọng và mặc kệ mà thôi. Không ai có thể sống mãi với đau khổ được mà điều cốt yếu là các bạn biết vượt qua đau khổ đó bằng niềm tin và sự sống luôn tiềm tàng trong con người các bạn đang chờ để chỗi dậy, vươn mình giúp khẳng định bạn luôn vững tin trước sóng gió của cuộc đời thôi.
Tôi không thể nói khi các bạn đau khổ các bạn phải làm gì vì sự gì làm bạn đau khổ thì sự ấy phải được bạn tháo bỏ.
Tôi cũng đã có những phát giây phút đau khổ và tuyệt vọng nhưng tôi có một thói quen là những lúc ấy tôi tìm một ai đó để chia sẻ và để được chia sẻ và người tôi luôn tìm đến đó là Đức Ki Tô trong nhà nguyện và trò chuyện với Chúa trong lòng tôi. Tôi rất trân trọng những lúc ngồi trong nhà Chúa để tĩnh tâm và cầu nguyện, đứng trước Chúa tôi thấy tôi yếu đuối, đứng trước Chúa tôi thấy tôi có thêm sức mạnh để sống và chiến đấu với những đau khổ mà ngoại cảnh cuộc sống đem lại vì tôi nhận thấy nơi Chúa một luồng sức mạnh lan tỏa tới tôi, mời gọi và thêm sức cho tôi, tôi mến Chúa vô cùng vì với tôi Chúa là tất cả, được gần bên Chúa, tôi như quên đi mọi đau khổ trong tôi, tôi an tâm bước đi vì tôi biết Chúa luôn đồng hành cùng tôi trong mọi nơi, mọi lúc. Tôi thầm cảm tạ Chúa vì hồng ân đó Ngài đã ban cho tôi.
Còn các bạn, khi đau khổ bạn đã tìm ai để chia sẻ? Có khi nào bạn tìm đến cùng Chúa không? Bạn có biết khi bạn đang đau khổ thì Chúa cũng đang đau khổ cùng bạn không?
Tôi rất mong qua những lời chia sẻ trên đây, các bạn sẽ tìm ra một “ con đường”, một sự giải thoát cho những đau khổ mà bạn đang phải trải qua. “ Hãy vui mừng khi có niềm hi vọng, cứ kiên nhẫn lúc gặp gian truân và chuyên cần cầu nguyện “ ( Rôma 12,12)
Hãy cứ vững tin và nở nụ cười trong gian nao nhé các bạn !
Bùi Hiếu Ngọc

THẦY TIẾN ƠI ! CHÚNG CON ĐÃ VỀ !

THẦY TIẾN ƠI ! CHÚNG CON ĐÃ VỀ !

Thầy Tiến ơi! Ngày hôm nay vui quá! Cảm động quá, thầy ơi! Con cảm thấy hạnh phúc và hân hoan quá! Nhưng thầy Tiến ơi, vui thế mà sao nước mắt con cứ nhòa đi, con xúc động. Một cảm giác nhớ nhung, yêu thương đang trào dâng lên trong lòng con. Thầy ơi ! Thầy ở trên Trời có cảm nhận được niềm vui ngày hôm nay không? Thầy ơi! Chúng con nhớ thầy nhiều lắm! Con ước gì bây giờ thầy còn ở nơi đây để chung vui niềm vui cùng các thầy cô đáng kính- những người ngày nào cùng thầy gian khổ đào tạo chúng con nên người- các thầy cô là những người thầy thật đặc biệt trong lòng chúng con, những người thầy mà cả cuộc đời này con và các bạn của con sẽ không bao giờ quên- những thầy cô giáo Cùi của chúng con.
Con và các bạn nhớ và biết ơn thầy Tiến nhiều lắm !
Còn nhớ ngày nào lũ học trò nghịch ngợm và có cảnh ngộ bất hạnh chúng con ngày đầu tiên được cầm sách tới lớp học để học chữ. Ngày đó chúng con trông mới thật ngộ nghĩnh làm sao: quần áo rách rưới, chân đất, mái tóc đứa trọc tếu, được lù xù nhưng trong chúng con lúc đó rất thích học. Trong căn nhà trang lụp sụp, chúng con bắt đầu được học những con chữ và mấy con số dài ngắn. Nhưng có lẽ cảnh đầu tiên chúng con được nhìn thấy đó là hình ảnh một thầy giáo có mái tóc hoa râm. hai tay chống lạng, tập tễnh bước vào lớp. Cả lớp ồ lên : Thầy Tiến !
Những con mắt tròn xoe, thơ ngây chúng con đổ hết về phía thầy. Ở Văn Môn, không ai là không biết thầy vì thầy là bệnh nhân phong đến đây đã lâu năm nhưng chúng con không bao giờ dám nghĩ thầy lại trở thành Thầy Giáo của chúng con. Buổi học đầu tiên diễn ra thật vất vả nhưng cũng thật là nhiều kỉ niệm:
Thầy ở trên bục giảng nắn nót và cẩn thận chậm dãi viết từng nét chữ còn bọn con ở dưới thì nói chuyện rồi đánh nhau, vẽ lên mặt nhau những nét nghệch ngoạc trông như mèo ấy... Cả lớp nói chuyện thầy dừng viết chông đôi lạng từng bước xuống chỗ chúng con nhỏ nhẹ:
- Học thôi nào các em ! Muốn thành tài và tiến lên vượt qua mặc cảm con nhà bệnh tật thì các em cần phải học.
Lúc đó, chúng con chỉ cười và " vâng ạ!" cho xong chứ đâu có hiểu điều này có nghĩa là gì đâu?
Buổi học đầu tiên chúng con học là cách đọc và viết chữ A, B, C, D... rồi các số đếm 1,2,3,4...... Ngày qua ngày như thế dưới mái trường tranh lá ấy ngân vang những bài học thầy dạy chúng em.
Ban ngày thầy lên bục giảng, tối về thầy lại thức khuya để soạn giáo án! Thầy ơi, sao đôi bàn tay thầy kì diệu đến vậy- đôi bàn tay không lành lặn vì di chứng của bệnh phong cùi tàn phá vậy mà sao nét chữ thầy vẫn đẹp lạ lùng vậy.

Thầy ơi, ngày đó có rất nhiều lớp học và cũng có rất nhiều thầy cô dạy học đúng không ạ? Có : cô Ngọ, thầy Trù, thầy Tửu, cô Hương, cô Hồng, thầy Cúc.... Các thầy cô ấy cũng tham gia "Gieo giống" cùng thầy đấy. Đôi bàn chân, bàn tay các thầy thật kì diệu : Tàn mà không hề phế. Mặc dù không được đào tạo về mặt sư phạm nhưng bằng tấm lòng yêu mến thế hệ trẻ chúng con mà các thầy cô đã mở trường, mở lớp để dạy dỗ chúng con- mái trường thân thương của những thầy cô giáo Cùi
Con nhớ, năm 1971 bão lụt rất lớn, rồi năm 1972 giặc Mĩ ném bom dữ dội xuống quê hương Việt Nam và trong đó có cả bệnh viện Văn Môn nữa, lắm lúc chúng con đang say sưa nghe thầy giảng,khi nghe tiếng máy bay chúng con lại ríu rít đưa nhau xuống hầm trú ẩn, máy bay qua rồi chúng con lại í ới gọi nhau lên tiếp tục nghe các thầy cô giảng..................
Thấm thoát đã mấy chục năm, đã có biết bao thế hệ học sinh đã trưởng thành dưới mái trường đơn sơ nhưng giàu tình yêu thương ấy.Giờ đây chúng con đã khôn lớn trưởng thành có những người trong chúng con đã trở thành kĩ sư, bác sĩ, những người có chức có quyền trong nhà nước nhưng chúng con vẫn không bao giờ quên ơn giáo dục, dạy dỗ của các thầy cô Cùi kính yêu của chúng con và đặc biệt là sự dạy dỗ nhiệt tình của thầy Tiến đấy!
Trong buổi lễ :
"KỈ NIỆM NGÀY NHÀ GIÁO VIỆT NAM 20/11 và TRAO TẶNG KỈ NIỆM CHƯƠNG CHO CỰU GIÁO CHỨC- BỆNH VIỆN PHONG DA LIỄU VĂN MÔN "
Con thấy mọi người đã khóc đặc biệt là con gái thầy đã khóc rất nhiều trong phút tưởng niệm về thầy. Cô ấy khóc và chúng con cũng nghẹn ngào vì năm 2008, thầy còn ngồi trên chiếc xe lăn cùng chúng con ra tham dự Hội nghị cựu giáo chức nhân dịp 20/11/2008, vậy mà bây giờ chúng con chỉ còn thấy thầy trong quá khứ.
Thầy ơi! Thầy ra đi quá sớm khi mà chúng con thực sự chưa đền đáp được công ơn thầy đã " gieo hạt giống Đẹp " trong lòng chúng con.
" Không thầy đố mày làm nên "
Vâng, không có thầy và các thầy cô giáo Cùi đáng kính vun trồng tâm hồn chúng con thì có lẽ chúng con sẽ không bao giờ có được những ngày tươi đẹp như hôm nay, thầy ơi! Thầy có nhớ anh Sơn, anh Hòa, chị Thái, chị Mùi..... không ? Các anh chị ấy giờ đây đã phương trưởng và thăng tiến trên con đường lập nghiệp rồi đấy! Thầy ơi, thầy có vui không khi học trò của thầy bây giờ đã trưởng thành hết cả rồi: bác sĩ, kĩ sư. sĩ quan quân đội, giám đốc.....? Buổi gặp mặt hôm nay các anh chị ấy cũng về dự đông đủ đấy, chỉ còn thiếu thầy Tiến thôi.
Câu nói thầy nói ngày nào bây giờ chúng con đã hiểu, giờ đây chúng con không còn phải cúi mặt hay mặc cảm về số phận " con nhà Cùi" của chúng con nữa mà thay vào đó chúng con đang từng bước khẳng định mình với xã hội rồi? Thầy ơi, có những điều mà chúng con bấy lâu nay không dám nói ra với thầy nhưng bây giờ tâm hồn chúng con đã lớn và đã chín chắn, chúng con muốn nói lời xin lỗi tới thầy và các thầy cô vì ngày xưa chúng con đã không ít lần làm thầy cô phải buồn lòng. Chúng con muốn nói rằng: Thầy cô luôn là người mẹ, người cha của chúng con, nếu thực sự không có các thầy cô "gieo chữ" thì có lẽ anh em chúng con sẽ chẳng có gì cả, con đường chúng con đi nếu không có các thầy chỉ lối thì bây giờ không biết sẽ ra sao nữa. có lẽ, lời cảm ơn mà anh em chúng con gửi tới thầy tuy có muộn màng nhưng thẳm sâu trong đáy lòng chung con luôn biết ơn thầy nhiều lắm!
Các thầy cô bây giờ còn sống cũng đã già cả rồi nhưng con cảm thấy các thầy cô ấy vẫn còn trẻ lắm bởi lẽ các thầy cô sẽ còn phải dạy dỗ chúng con nhiều điều nữa.
Chiều nay, chúng con ra mộ thắp hương tưởng nhớ thầy, nhìn ảnh thầy mà chúng con không sao cầm được nước mắt. Nước mắt chảy ra không sao ngăn lại được. Con không biết có phải tại khói hương nghi ngút làm cay mắt chúng con không hay tại nỗi nhớ thầy đang trào dâng trong mỗi chúng con, anh em chúng con bật khóc vì chúng con không còn được nhìn thấy thầy nữa và còn vì chúng con tự hào vì là học trò của những người thầy giáo Cùi vĩ đại.
Thầy ơi ! Chúng con mãi yêu thầy và nhớ đến thầy. Cầu mong thầy yên nghỉ an lành trong giấc ngủ ngàn thu .

Bùi Hiếu Ngọc

Thursday, February 11, 2010

What is it that separated us from God’s love?

In the spring of 2008, Bishop Jos. Ngan and a friend visited the family of Mr. Ky in Noc Tong. I am very interested in visiting them also.
A long time ago, at Noc Tong village, Phuc Hoa district, Cao Bang province- North Vietnam near border Vietnam-China, there was one Catholic family. The Nung ethnic people held the Family of Mr. Ky in honor. Before their boy Ky was born, Ky’s parents had no children. Every child had died immediately after birth. The Boy Ky was scraggly and sickly. Ky’s parents were afraid that he would die the same as their children had. His parents gave him to God in the hopes that the missionary priest would feed and nourish him.
With Father’s love, boy Ky was grown, educated and in good health. Boy Ky was baptized Catholic. With his knowledge, he became the secretary of village.
Someone told him: “You should leave the church and return home. Because you are strong, you do not need God or Jesus.” He replied: “I will never refuse my God who made me strong and grown.” When boy Ky became a young man, took a wife, and had children. He kept faith of God although his relatives urged him refuse God.





After 1954, there were no priests or sisters staying in this land. That time was very hard for the Catholics of the North Vietnam.
On 3 Aug. 2003, his daughter died from cancer. Bishop Kiet visited his family and celebrated Mass inside his home.
He asked him: “How did you keep your faith during all the hard times?” He pointed up to a bamboo soil wall: “With the sign of Holy Cross painted by charcoal, and, bottom it I wrote these words: We believed in Trinity, all of us together prayed daily.”
But, soon after that Mass, misfortune happened to his family. His wife died four days later. Because she loved their daughter so much, and death of daughter was painful for her. At the end of that year, he, too, went to rest in God’s hands.
We were wondering, if we have the same situation as Mr. Ky’s family whether we can keep faith and be truthfully in God?


But so far, his descendants continue to keep the faith. Mr. Hieu, the son of Mr. Ky, tells me that we keep praying and reading Bible in front of altar every day.
In Romans 8:35-39, Saint Paul said: Who shall separate us from the love of Christ? Shall trouble or hardship or persecution or famine or nakedness or danger or sword? As it is written: “For your sake we face death all day long; we are considered as sheep to be slaughtered.”No, in all these things we are more than conquerors through him who loved us. For I am convinced that neither death nor life, neither angels nor demons, neither the present nor the future, nor any powers, neither height nor depth, nor anything else in all creation, will be able to separate us from the love of God that is in Christ Jesus our Lord.
We live in a free world. No one forces us to seek refuge in our God, our Faith... but many catholic have left the church. Why do many Catholics not attend the Mass, and live a life in sin?
What is it that separates us from the love of Christ in this modern society?
For us, it is the lack of prayers in our everyday spiritual life. We do not keep praying daily! This separates us from the love of God.
My God, may You teach us how pray every day of our life, so we will say: ... I am convinced that neither death nor life, neither angels nor demons, neither the present nor the future, nor any powers, neither height nor depth, nor anything else in all creation, will be able to separate us from the love of God that is in Christ Jesus our Lord.
Paul Thien.

Thursday, February 4, 2010

LESSON OF LOVE


On July 2005, we, seminarians of Saint Joseph Seminary of Hanoi, came to live at Van Mon leprosy Hospital below Thai Binh province in North Vietnam (far from east-south Hanoi about 120 km).
Before coming Van Mon, we always prided ourselves that our love was shared with people with leprosy from our heart, as taught through lessons from the books of the Bible, Jesus, God. But when we lived with leprosy, I know it was a mistake!
Once day, it is very hot midsummer of day’s, I saw a boy like a mad man. He wore only torn pants, following him was an old woman. Her right hand touched his shoulder.
I wonder who are they ?!
Next days, I visited them for lunch. Old woman was blind for 7 years because complications of leprosy disease. Her name is Xi, and boy is the son of Mrs. Xi. He was mentally ill from birth. Thanh is his name.
Mrs. Xi told me about her family life of suffering. Their province is Hai Duong. She had four children, three children were given to others to feed (the law of leprosy hospital forbids people with leprosy to give birth). So far, they lived in Van Mon Hospital 40 years. She said: my great dream is that my eyes can open and see my grandchildren.
At the end of lunch with them, I listen to a voice from next the room: “ Have finished lunch, Mrs. Xi?” “Yes, I have, wait a minute!”
Mrs. Xi stand up, with skilled movement, she pour water into a mug, bringing it to other woman in next room.
I was very surprised! A blind woman served others who suffered but who cannot be moved!
I recognized lesson of love from a person with leprosy; certainly I did not share it with them (teach them they taught me).
Leprosy patients taught me the lesson of love. Certainly I did not bring it to them.
To day, Saint Paul said: “... Love is patient, love is kind. It is not jealous, it is not pompous, it is not inflated, it is not rude, it does not seek its own interests, it is not quick-tempered, it does not brood over injury, it does not rejoice over wrongdoing but rejoices with the truth. It bears all things, believes all things, hopes all things, endures all things....”(1 Cor 13:4-13).
A mad boy leaded blind leprosy mother for around the leprosy hospital. This image appeared in my mind when I reading the scripture from St. Paul above.
My God, teach me love each other by watching my neighbors and others!
Hanoi, 31 January 2010
Paul Nguyen Trung Thien.

IT IS JUST THEORY


It is just theory!
This is story of my pastoral work when I served at Ban Lim parish, of Lang Son diocese. I can never forget this story ever. It made a strong impression in my mind so I will not forget it for the rest of my pastoral life.
Once a tottering red faced man entered the parish. His breath smelled like alcohol. When he saw me, with drawling voice he said : “Father Lau is bad...not kind...., father Lau despise me.”
(I give short an explanation: people of Ban Lim like to call me cha Lau, they do not call me cha Thien. With Nung ethnic language say: cha Lau is father Lau, it means our own father).
And then, I invited him to sit down. I tell him in a calm voice: “Excuse me! What’s your name?” “A Khi is my name”, he replied. “I am a shepherd of father Lau but you never visit my house. Father Lau dispise me, because I’m poor! I am Mrs. Hang’s husband. I have been Hang Ngau, beyond Ky Cung river, opposite Ban Lim church. I am not Catholic but my wife is Catholic, Bishop Kiet married us... My family lives in here still.”
I tell him, I am sorry. And when I visited his house, I invited him to attend Mass and watch how I celebrate Mass.
Yes, more than one year ago, on Sunday the feast of the Holy Family 2009. While everybody listening to the second reading, A Khi goes tottering into the church. In fact, he was very drunk. At the front door, he made the sign of the holy cross and sat down.
I started my homily on Feast of the Holy Family.
Summary of this homily is: Today is Sunday the Feast of the Holy family. Our families are the same as the Holy Family. First, Holy Family was a poor family. Joseph and Mary are very poor; they had neither a car nor a building nor a lot of money. Brothers and sisters, we are the poor too. We have nothing of value, and have neither a car nor a building. And the second, Holy family did manual labor , Joseph was a carpenter, and Mary did housework. And for us, all of you are farmers, the same as the Holy Family: our families are laborers .
However, our families are different from the Holy Family. You know, Bible never tells us that: Saint Joseph drank, but we, husbands and youngmen, got drunk many times.
Immediately, A Khi stands up and utters: Father Lau ....father Lau... it is just theory...it is just theory!
Someone told him to sit down. And I continued homily.
At the end of homily, I told a story: Once, a boy entered the parish garden. I asked him: “Could you tell me about your parents?” “Ok!” he replied. “What is your father’s profession?” “Father Lau, my father is factory manager!” I was surprised. I ask myself: This place has a manager too?!!! I ask him: “What kind of factory does your father manage?” “Father Lau, my father manages a factory of wine!” He replied.
At once, A Khi stands up and cries loudly: “It is just right! Father Lau... It is just right! Father Lau!”
I think that, if we are Catholic, and if we do not improve our spiritual life, and we do not become a witness of the Good News, a witness God’s love, a witness as a child of God, so than non-Catholic people will say the same A Khi said: “It is just theory!”
Hanoi, 27 January 2010.
Paul Nguyen Trung Thien